Khả năng tích hợp cao
Trước nhất, Đạo Mẫu không phải là một hình thức tín ngưỡng tôn giáo đồng nhất, mà nó là một hệ thống các tín ngưỡng tôn giáo, trong đó ít nhất nó bao gồm 3 lớp khác nhau, nhưng có mối quan hệ hữu cơ và chi phối lẫn nhau, đó là lớp tín ngưỡng thờ Nữ thần, lớp thờ Mẫu Thần và lớp thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ. Lớp thờ Nữ thần mang tính phổ quát rộng rãi, phù hợp với xã hội nông nghiệp và vai trò của người phụ nữ trong xã hội. Lớp thờ Mẫu thần phát triển trên cái nền thờ Nữ thần, như thờ các Vương Mẫu, Quốc Mẫu, Thánh Mẫu, như: Ỷ Lan, Mẹ Gióng, Thiên Ya Na, Linh Sơn Thánh Mẫu - Bà Đen, Bà Chúa Xứ ... Về cơ bản lớp thờ Nữ Thần và Mẫu Thần mang tính bản địa, nội sinh. Lớp Mẫu Tam phủ, Tứ phủ hình thành trên cơ sở lớp tín ngưỡng thờ Nữ thần và Mẫu thần và tiếp thu những ảnh hưởng của Đạo giáo Trung Quốc. Tuy nhiên, sau khi đã hình thành và định hình thì đạo Tam phủ, Tứ phủ đang ảnh hưởng theo hướng Tam phủ, Tứ phủ hóa tín ngưỡng thờ Nữ thần và Mẫu thần.
Đạo Mẫu là tín ngưỡng bản địa có nguồn gốc từ lâu đời, đã từng tồn tại trong thời kỳ lâu dài của lịch sử chế độ phong kiến, nhất là thế kỷ XV - XIX, vẫn tiềm ẩn và có chiều hướng phát triển trong xã hội hiện nay, ở cả đồng bằng, đô thị và miền núi, tạo nên một nét khá nổi bật trong bức tranh chung vốn hết sức đa dạng và phong phú của tôn giáo tín ngưỡng Việt Nam.
Đây là một thứ tín ngưỡng có nguồn gốc bản địa đích thực, mặc dù trong quá trình phát triển, nó đã thu nhận không ít những ảnh hưởng của Đạo giáo, Phật giáo và thậm chí cả Nho giáo nữa. Đạo Mẫu lấy tôn thờ Mẫu (Mẹ) làm đấng sáng tạo và bảo trì cho vũ trụ- con người, là nơi con người ký thác những mong ước, khát vọng về đời sống trần thế của mình, đạt tới sức khỏe, tài lộc. Một tôn giáo tín ngưỡng hướng về đời sống trần thế hiện tại, chứ không phải là mai sau, ở thế giới bên kia!
Một hệ thống thần điện tuy là đa thần (có khoảng trên dưới 60 vị thần thánh), nhưng đứng đầu và bao trùm lên là Thánh Mẫu, trong đó Thánh Mẫu Liễu Hạnh tuy xuất hiện muộn mằn trong điện thần (từ thế kỷ XVI) nhưng lại chiếm vị trí thần chủ trong điện thần Đạo Mẫu. Chính Thánh Mẫu Liễu Hạnh đã “trần thế hóa” Đạo Mẫu và trong điều kiện của xã hội Nho giáo cuối thời phong kiến nó đã bắt rễ sâu vào xã hội và đời sống tâm linh của mỗi con người Việt Nam.
Đạo Mẫu vốn là tín ngưỡng bản địa của tộc Việt, nhưng nó thể hiện một khả năng tích hợp tôn giáo tín ngưỡng cao, làm cho hệ thống điện thần cũng như bộ mặt văn hóa của nó thể hiện tính đa tộc người, đa văn hóa của các tộc người cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Hiếm có tôn giáo, tín ngưỡng nào lại có khả năng tích hợp văn hóa như Đạo Mẫu. Hiếm có một tôn giáo tín ngưỡng bản địa nào lại “tiềm tàng” sức tự biến đổi, “trẻ hóa” như là Đạo Mẫu. Nó không chỉ có sức sống trong điều kiện chế độ phong kiến quân chủ mang nặng hệ ý thức Nho giáo, mà còn tiềm ẩn và bùng phát trong xã hội đô thị hóa, công nghiệp hóa hiện nay.
Ảnh hưởng tới các tín ngưỡng, tôn giáo khác
Thoát thai từ đạo Thờ Thần và chịu những ảnh hưởng của Đạo giáo Trung Quốc, đạo Mẫu với tư cách là một biến thể của Đạo giáo bản địa Việt Nam đã và đang thâm nhập và ảnh hưởng tới các tín ngưỡng, tôn giáo khác.
Cùng một loại hình Đạo giáo, đạo Mẫu rất gần gũi với đạo thờ Tiên trong cả quan niệm, thần điện và nghi thức thờ cúng. Hơn thế nữa, vị thần chủ của đạo Mẫu là Liễu Hạnh đồng thời cũng là một vị Tiên tiêu biểu của Việt Nam. Đấy là chưa kể các hình thức nghi lễ cầu Tiên, luyện đồng, giáng bút của hai loại đạo này cũng có rất nhiều nét vay mượn của nhau. Tương tự như vậy ta có thể nói tới mối quan hệ giữa đạo Mẫu v�Tứ Bất Tử của nước ta, trong đó vị thần chủ đạo Mẫu đồng thời lại là một trong bốn vị Thánh Bất Tử .
Cùng xuất phát từ đạo thờ Thần, nhưng giữa đạo Mẫu và thờ Thành Hoàng các làng xã ít có quan hệ gắn bó, mặc dù nhiều vị Thánh của đạo Mẫu đồng thời cũng là Thành Hoàng của khá nhiều làng xã. Phải chăng, cùng gốc thờ Thần, nhưng tục thờ Thành Hoàng đi theo con đường tiếp thu Nho giáo và chịu sự “kiểm soát” của triều đình thông qua việc phong sắc thần cho các Thành Hoàng, còn đạo Mẫu lại tiếp thu Đạo giáo và nằm ngoài vòng “kiểm soát” của triều đình, có lúc còn trở thành đối địch.
Đạo Mẫu cũng tiếp thu những ảnh hưởng của tục thờ cúng tổ tiên, một tín ngưỡng có vai trò quan trọng hàng đầu trong tín ngưỡng Việt Nam. Điện thần của đạo Mẫu mang tính gia tộc có Vua Cha, Thánh Mẫu có Tháng Tám giỗ Cha, tháng Ba giỗ Mẹ, chẳng qua cũng là một dạng phóng đại của mô thức gia đình và thờ cúng tổ tiên. Chúng tôi ngờ rằng việc thờ Cô và Cậu của đạo Mẫu có cội nguồn sâu xa từ việc thờ cúng những người chết trẻ, Bà Cô, ông Mãnh, một yếu tố rất quan trọng trong thờ cúng tổ tiên ở các gia tộc và dòng họ.
Đến với Phật, về với Mẫu
Trong quá trình đạo Phật du nhập vào nước ta khoảng đầu công nguyên và một bộ phận quan trọng của nó đã phát triển theo khuynh hướng dân gian hóa khi mà từ sau thời Lê (thế kỷ XV), Phật giáo mất vai trò chính trị ở cung đình thời Lý – Trần, thì Phật giáo có xu hướng dân gian hóa, tạo điều kiện cho đạo Phật và đạo Mẫu có sự thâm nhập và tiếp thu ảnh hưởng lẫn nhau khá sâu sắc. Trong việc hình thành thiền phái Mật Tông ở nước ta có sự ảnh hưởng nhất định đến sự giao thoa Phật - Mẫu.
Điều dễ nhận biết là ở hầu hết các ngôi chùa hiện nay ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ đều có điện thờ Mẫu. Trong đó phổ biến nhất là dạng tiền Phật hậu Mẫu (phía trước thờ Phật, phía sau thờ Mẫu). Việc xuất hiện Mẫu trong chùa, theo nhà nghiên cứu Trần Lâm Biền, vào khoảng thế kỷ XVII-XVIII. Người ta đi chùa vừa để lễ Phật vừa để cúng Mẫu. Nhiều khi điện Mẫu trong chùa đã tạo nên không khí “ấm cúng”, nhộn nhịp hơn cho các ngôi chùa làng. Một số tăng ni có “căn quả” cũng trở thành tín đồ của đạo Mẫu, họ ngồi đồng hay ít nhất cũng tham dự các nghi lễ của đạo Mẫu. Ngày nay, ở hầu hết các ngôi chùa có điện Mẫu ở miền Bắc đều thường xuyên diễn ra nghi lễ hầu đồng.
Có nhiều ngôi chùa ở Nam Bộ lại thờ Mẫu là chính, như chùa Hang ở Linh Sơn (núi Bà Đen) hay chùa Bà ở TP Hồ Chí Minh. Có một dòng Phật - Mẫu trong các ngôi chùa ở Nam Bộ. Đây không phải là Thánh Mẫu Liễu Hạnh như ở Bắc Bộ, mà là Phật Mẫu Diêu Trì (Diêu Trì Kim Mẫu, một hóa thân của Cửu Thiên Huyền nữ của Đạo giáo Trung Hoa). Vị Thánh Mẫu này không chỉ xuất hiện trong các ngôi chùa Phật, mà cả trong thất Cao Đài. Gần đây trong một số ngôi đền thời Mẫu Tam phủ, Tứ phủ ở Bắc Bộ, nhất là ở TP Hồ Chí Minh cũng đã có sự hiện diện của vị Thánh Mẫu này.
Không chỉ có con đường các điện Mẫu đi vào chùa, mà còn có đường ngược lại - Phật đi vào các đền phủ thờ Mẫu. Trong điện thần cũng như cách thức phối tự ở các ngôi đền, phủ, ta đều thấy sự hiện diện của Phật, mà đại diện cao nhất là Phật Bà Quan âm cứu khổ cứu nạn cho chúng sinh. Cũng cần phải nhấn mạnh rằng, Quan âm trong Phật giáo Ấn Độ vốn là một nam thần, nhưng khi qua Trung Quốc và nước ta đã bị “nữ thần hóa”, thậm chí “Mẫu hóa” để trở thành Quan âm Thánh Mẫu của đạo Mẫu Việt Nam. Trong các ngày giỗ Mẫu - giỗ Mẹ, đều có nghi thức rước Mẫu lên chùa đón Phật về đền phủ cùng tham dự ngày hội. Trong hệ thống các bài chầu văn thì có văn chầu Nhị vị Bồ Tát...
Truyền thuyết về Liễu Hạnh công chúa còn ghi rõ sự tích Sòng Sơn đại chiến. Theo đó, trong lúc Mẫu Liễu đang bị các đạo sỹ của phái Đạo Nội lừa, thu hết phép thuật, dồn vào tình thế nguy kịch bị bắt giữ thì Thích Ca Mâu Ni đã ra tay cứu độ, giải thoát cho Liễu Hạnh công chúa. Từ đó, Thánh Mẫu Liễu Hạnh quy y, nghe kinh tuân pháp, chuyển hóa từ bi theo gương Phật.
Ở Tây Thiên, Vĩnh Phúc, sự kết hợp thờ Mẫu và Phật cũng rất chặt chẽ, tạo nên một dạng tín ngưỡng Phật – Mẫu, Mẫu – Phật. Tại đây, bất cứ nơi nào có đền thờ Mẫu đều có chùa thờ Phật và ngược lại, hình thành nên một quan niệm “Đến với Phật, về với Mẫu” trong hoạt động hành hương của con người. Hình tượng Bà Chúa Ba ở chùa Hương cũng thể hiện sự hòa quyện sâu sắc giữa Phật và Mẫu...
Tất nhiên, trong khung cảnh nông thôn Việt Nam, sự thâm nhập và ảnh hưởng lẫn nhau giữa hai tôn giáo tín ngưỡng dân dã này là điều dễ hiểu. Cùng là tín ngưỡng dân dã của người dân, cùng hướng về cái từ bi bác ái, tinh thần cộng đồng, khuyến thiện trừ ác, nền tảng của những nguyên tắc ứng xử xã hội cổ truyền. Với lại, dường như hai thứ tín ngưỡng này có cái gì đó bổ sung cho nhau, đáp ứng nhu cầu tâm linh của nông dân: theo Phật để tu nhân tích đức cho đời kiếp sau được lên cõi Niết Bàn cực lạc; còn theo đạo Mẫu là mong được phù hộ độ trì mang lại sức khỏe, tài lộc, may mắn cho đời sống hiện hữu thường ngày ở trần gian.