TRUYỀN THỐNG CHẾ TẠO ĐỒ NGỌC Ở VIỆT NAM THỜI TIỀN SỬ
 							Đồ ngọc xuất hiện đầu tiên trên đất nước ta vào hậu kỳ thời đại  đá mới. Tuy nhiên, phải đến giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên và giai đoạn  sơ kỳ thời đại đồng thau, vào khoảng 3500 năm đến 4000 năm cách ngày  nay, thì đồ ngọc mới trở nên thịnh hành và chiếm một vị trí thịnh vượng  trong xã hội cổ.   						 						
 
Đồ  ngọc xuất hiện đầu tiên trên đất nước ta vào hậu kỳ thời đại đá mới.  Trong các văn hóa đá mới ở vùng ven biển Đông Bắc - văn hóa Hạ Long hay  văn hóa đá mới ở vùng núi phía Bắc như văn hóa Hà Giang, văn hóa Mai  Pha, các nhà nghiên cứu khảo cổ đã tìm thấy các sản phẩm làm bằng đá  nephrite màu vàng, trắng, màu xám xanh dưới dạng những chiếc vòng chuỗi,  vòng tay có mặt cắt hình chữ nhật, chữ D hay hình tròn nhỏ nhắn, xinh  xắn. Ngoài ra, còn có khuyên tai có khe hở và có đường ren đều tăm tắp  như hình vành khăn hay những hạt chuỗi ó hình trụ dài, đẹp, được mài  bóng, khoan chính xác từ hai mặt lại, có mặt chuỗi dài từ 2 đến 12cm.  Tuy nhiên, phải đến giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên và giai đoạn sơ kỳ  thời đại đồng thau, vào khoảng 3500 năm đến 4000 năm cách ngày nay, thì  đồ ngọc mới trở nên thịnh hành và chiếm một vị trí thịnh vượng trong xã  hội cổ. 
Đồ  ngọc trong tiền sử chủ yếu tồn tại dưới 3 loại hình: đồ trang sức, công  cụ và vũ khí, vật biểu tượng tinh thần và tôn giáo. Vũ khí được dùng  trong các di chỉ thuộc văn hóa Phùng Nguyên bao gồm các di vật đặc biệt  như qua đá, nha chương, các mũi nhọn, mũi tên, dao đá. Trong số này, có  không ít các di vật được chế tạo bằng đá ngọc với kỹ thuật tinh tế,  trình độ cao. 
Ở  một chuyên khảo về loại hình đặc biệt có tên gọi là Nha chương trong  văn hóa Phùng Nguyên đã được phát hiện ở độ sâu hơn 1m của tầng văn hóa.  Di vật này được làm bằng đá nephrite, rất giống đá nguyên liệu ở công  xưởng Tràng Kênh. Những chiếc Nha chương phần nào chịu ảnh hưởng của nền  văn hóa Trung Quốc, đồng thời cũng là bằng chứng cho thấy, ngoài việc  tự chế tạo ra các sản phẩm đá ngọc mang phong cách văn hóa của mình,  người Phùng Nguyên còn tiếp thu các sản phẩm đá ngọc của văn hóa láng  giềng, làm phong phú thêm những gì mình đã có. 
Đồ  ngọc phổ biến hơn cả ở giai đoạn này là trong văn hoá Phùng Nguyên. Các  công cụ hay đồ trang sức thuộc văn hóa này đều được chế tạo bằng ngọc  bích. Văn hóa Phùng Nguyên có hơn 60 di chỉ phân bố trong một phạm vi  rộng khắp đồng bằng Bắc Bộ, chủ yếu là dọc theo lưu vực các con sông lớn  chảy từ phía Bắc xuống sông Hồng, sông Đà. Ở văn hóa này, các loại hình  di tích rất đa dạng, từ di chỉ cư trú, mộ táng đến các di chỉ xưởng sản  xuất công cụ lao động và đồ trang sức. Ngay trong văn hóa này, nhiều  loại nguyên liệu đá được sử dụng như đá bazan, Diabazan, Spilite...  nhưng phổ biến và đặc trưng hơn cả vẫn là đồ ngọc Nephrite và Jadiete.  Theo nhiều tài liệu của các nhà khảo cổ học, thì người Phùng Nguyên cũng  sử dụng hỗn hợp cả hai loại đá này trong cùng mục đích chung là chế tạo  công cụ lao động, vũ khí, đồ trang sức, trong đó đồ trang sức vẫn là  sản phẩm chủ yếu. 
Điều  này chứng tỏ, người Việt cổ đã biết khai thác, tìm kiếm đá ngọc, một  loại đá quý hiếm để chế tạo ra các sản phẩm có giá trị không chỉ cho  mình mà còn có giá trị trên thương trường khu vực. Tuy nhiên, không phải  cho đến tận giai đoạn Tràng Kênh với niên đại 3500 năm cách ngày nay đồ  ngọc mới xuất hiện trên địa bàn cư trú của người Việt mà ngay trong các  văn hóa đá mới, như văn hóa Hạ Long ở ven biển Đông Bắc Việt Nam, văn  hóa Bầu Tró ven biển miền trung hay trong các di tích thuộc giai đoạn  hậu kỳ đá mới cũng đều đã tìm thấy khá nhiều di vật được chế tác bằng đá  ngọc. 
Phần  lớn những vật đeo này được chế tạo từ những mẩu đá ngọc còn thừa trong  các chế tác khác chứng tỏ sự sáng tạo của con người trong văn hóa này.  Hạt chuỗi được người Phùng Nguyên sử dụng là những hạt chuỗi hình ống,  nhiều chiếc có chiều dài tới 8-9cm nhưng lỗ khoan rất nhỏ. Nhiều hạt  được mài vắt chéo ở hai đầu như thể đó là vật chủ trong một chuỗi hạt  của người Tràng Kênh. Ngoài ra, hạt chuỗi dạng hạt cườm mỏng cũng rất  phổ biến. 
ước  sang một giai đoạn mới, khi đời sống con người được cải thiện, ngoài  nhu cầu mưu sinh phục vụ cuộc sống hàng ngày, các cư dân Việt cổ đã biết  tự trang điểm cho mình bằng những vật đeo được ghè đẽo, tận dụng từ  những mảnh đá ngọc còn lại sau khi chế tạo công cụ. Điều này thể hiện  bàn tay khéo léo và óc sáng tạo của những cư dân này. 
Tại  các di chỉ Phùng Nguyên, hơn 500 vòng các loại và gần 50 hiện vật khác  như khuyên tai, hạt chuỗi vật đeo v.v… cũng đã được thu thập. Đặc trưng  chủ yếu của đồ trang sức Phùng Nguyên là thanh mảnh, nhẹ nhàng, mặt cắt  của vòng cơ bản là các loại hình chữ D, hình chữ nhật dẹt, mỏng, hình  vuông, hình tròn mà tiêu biểu là vòng hình chữ T được coi như một đặc  trưng nổi bật của nền văn hóa này và giai đoạn này. 
Nói  đến đồ ngọc trong văn hóa Phùng Nguyên, chúng ta không thể không nhắc  đến hai di chỉ xưởng có qui mô lớn, hiện diện ở đồng bằng Bắc bộ là di  chỉ xưởng chế tạo đồ trang sức đá ngọc Tràng Kênh - Hải Phòng và Bãi Tự -  Bắc Ninh. Chủ nhân của hai di chỉ này là những người thợ chế tác đồ  ngọc có tiếng và có vị trí nhất định thời bấy giờ. Sản phẩm mà những  người thợ này làm ra được lưu hành rộng rãi trong xã hội thời đó như bảo  chứng của một thời kỳ thịnh hành của đồ ngọc. 
Sau  nhiều cuộc thám sát và nghiên cứu, các nhà khảo cổ học đã đi đến một  kết luận, ngọc Nephrite được sử dụng rất phổ biến như một loại nguyên  liệu chủ đạo của hai di chỉ xưởng này. Tiếp nối truyền thống đồ ngọc từ  hậu kỳ đá mới, qua nền văn hóa đồ ngọc nổi tiếng Phùng Nguyên, vào các  giai đoạn phát triển khác nhau, đồ ngọc vẫn tồn tại những số lượng của  nó không nhiều. Sang thời kỳ văn hóa Đông Sơn, dường như đã có một sự  thịnh vượng trở lại đối với đồ ngọc.Ở giai đoạn này, chất lượng của đá  ngọc đặc biệt tốt hơn, màu sắc đẹp hơn, do đó, nó có giá trị hơn về mặt  kinh tế. 
Loại  hình đồ ngọc trong văn hóa Đông Sơn cũng rất chuyên biệt, rất ít vòng  tay, hạt chuỗi mà phổ biến nhất là khuyên tai. Đó là những chiếc khuyên  tai loại dẹt, rộng bản, có mép ngoài vát tròn hoặc nhọn. Về mặt màu sắc,  khuyên tai có màu ngọc đậm, loại được làm bằng đá Nephrite sáng màu  không có nhiều nhưng xuất hiện khuyên tai làm bằng đá quarzt. 
Rõ  ràng là, cho đến văn hóa Đông Sơn, người Việt cổ lại quay trở lại với  truyền thống xa xưa tưởng chừng suy tàn khi đồ đồng xuất hiện và chiếm  lĩnh vị trí ưu thế trong đời sống xã hội cổ. Cùng thời với văn hóa Đông  Sơn ở Việt Nam, tại miền trung và miền Nam  còn có văn hóa Sa Huỳnh. Trong văn hóa này, đồ ngọc được chế tạo dưới  dạng những chiếc khuyên tai hai đầu thú và khuyên tai ba mấu. Đây là hai  loại di vật đặc trưng nhất của văn hóa Sa Huỳnh. 
Về  mặt kỹ thuật chế tạo, khuyên tai ở văn hóa Sa Huỳnh khác với cách thức  chế tạo khuyên tai ở văn hóa Đông Sơn, mặc dầu đây là hai nền văn hóa  này tồn tại trên cùng bình tuyến thời gian. Về mặt chất liệu, đá ngọc ở  văn hoá Sa Huỳnh cũng có nhiều màu sắc khác biệt với các văn hóa khác,  nhưng cũng có sự giao lưu, trao đổi với bên ngoài mạnh mẽ hơn. 
Trong  nhiều mộ chum của văn hoá Sa Huỳnh các nhà khảo cổ đã tìm thấy khuyên  tai hai đầu thú, đồng thời ở vùng ven biển hải đảo và một số nước trong  khu vực Đông Nam Á cũng tìm thấy một số loại khuyên tai thuộc giai đoạn  văn hóa Sa Huỳnh được làm bằng đá nephrite. 
Ở  văn hóa Sa Huỳnh, kỹ thuật cưa không phát triển nhưng những kỹ thuật  mài, tu chỉnh và đánh bóng khuyên tai hai đầu thú và khuyên tai ba mấu  chiếm nhiều thời gian trong quá trình chế tác. Qua các giai đoạn xuất  hiện, tồn tại và phát triển của đồ ngọc thấy rõ một truyền thống chế  tác, sản xuất đồ ngọc ở Việt Nam.  Những người thợ thủ công ngay từ thời kỳ văn hóa Phùng Nguyên đã tỏ ra  có một trình độ cao trong kỹ thật chế tạo các sản phẩm đồ ngọc. 
Về nguồn nguyên liệu, cho đến nay, chưa có bằng chứng rõ ràng về mỏ hay các dấu vết khai thác đá ngọc trong thời tiền sử Việt Nam.  Song có thể thấy, đồ ngọc trong giai đoạn Phùng Nguyên khác biệt với đồ  ngọc trong giai đoạn văn hóa Đông Sơn, điều đó chứng tỏ nguyên liệu  ngọc được khai thác ở các khu vực khác nhau. 
Nếu  như trong giai đoạn Phùng Nguyên, kỹ thuật cưa, cắt đá ngọc là một kỹ  thuật được sử dụng chủ yếu trong thao tác, nhưng trong giai đoạn Đông  Sơn, kỹ thuật này ít được sử dụng, quy trình chế tạo phần lớn là kỹ  thuật ghè, tu chỉnh, còn kỹ thuật khoan được sử dụng phổ biến ở cả hai  giai đoạn này, nhưng có những công đoạn khác biệt nhau. Tuy nhiên, cũng  có thể thấy rằng, kỹ thuật chế tác đá ngọc dường như đã có những trao  đổi, giao lưu trong thời tiền sử ở các khu vực khác nhau. 
Nhìn lại tiền sử Việt Nam,  đã có ba trung tâm được hình thành và phát triển. Đó là các trung tâm  cư trú, sản xuất nông nghiệp và sản xuất thủ công như Trung tâm đồng  bằng Bắc Bộ, trung tâm đồng bằng Bắc Trung Bộ và trung tâm đồng bằng  miền Đông Nam Bộ. Nhưng nghề chế tác đồ ngọc trong tiền sử Việt Nam lại  có mặt tại khu vực trung tâm đồng bằng Bắc Bộ ngay từ giai đoạn rất sớm -  cuối thời đại đá mới sang đến sơ kỳ thời đại đồng thau. Qua các thời kỳ  thịnh vượng, nghề chế tác đồ ngọc đã trở thành nghề thủ công phát triển  nhất và có những lan toả nhất định về kỹ thuật và trao đổi về sản phẩm  trong cộng đồng người Việt cổ từ đồng bằng Bắc Bộ đến khu vực Bắc Trung  Bộ Việt Nam.
                               (Nguyễn Kim Dung, Tạp chí KHẢO CỔ HỌC số 4 năm 1998, tr.23-40)