Suốt nửa đầu thế kỷ X, tranh sơn thủy có chuyển biến sâu sắc. Nổi bật về sơn thủy có hoạ gia Quách Hi (1000-1090). Vua Tống Huy Tông (cai trị 1101-1125) là một nhà bảo trợ lớn cho các hoạ gia. Bản thân nhà vua cũng là một thư hoạ gia nổi tiếng. Tranh hoa điểu đời này cũng noi theo phong cách của Hoàng Thuyên và Từ Hi đời trước. Hoàng Cư Thái (con của Hoàng Thuyên) rất được vua sủng ái và được mời vào Hàn Lâm Hoạ Viện và do đó phong cách tả thực (công bút) chiếm ảnh hưởng độc tôn trong viện phái (hoạ phái của cung đình).
Tuy nhiên trong các đời vua Tống sau đó, con cháu của Từ Hi (như Sùng Tự, Sùng Huân, Sùng Củ) cũng được vua sủng ái. Vì thế phong cách của viện phái là sự dung hợp của tả thực và tả ý. Các hoạ gia tiêu biểu là Thôi Bạch, Thôi Cốc, Ngô Nguyên Dũ, Triệu Xương, Dịch Nguyên Cát. Đời Nam Tống, Hàn Lâm Hoạ Viện có các hoạ gia danh tiếng như Lý An Trung, Lý Địch, Lâm Thung.
Hội hoạ đời Nguyên không có gì đặc sắc, chẳng qua là mô phỏng đời Tống. Trong đời Minh, triều đình cũng bảo trợ các hoạ gia. Thời này nổi bật ba hoạ phái: Viện phái (của triều đình), Chiết phái, và Ngô phái. Đại biểu của Viện phái là Đường Dần, Cừu Anh, Chu Thần. Chiết phái gồm các hoạ gia quê Chiết Giang như Ngô Vĩ, Trương Lộ, Tưởng Tam Tùng, Tạ Thời Thần, v.v... Ngô phái tiêu biểu là Thẩm Chu, Văn Trưng Minh, Đổng Kỳ Xương, Vương Phất, v.v... Khi đời Thanh đạt đỉnh thịnh dưới triều vua Càn Long, phong cách Viện phái càng trau chuốt tỉ mỉ do ảnh hưởng thị hiếu của nhà vua và ảnh hưởng phong cách của các giáo sĩ Tây phương kiêm hoạ sĩ, thí dụ như Giuseppe Castiglione (1688-1768).
NGHỆ THUẬT CỦA GIỚI VĂN NHÂN
Cuối đời Nam Tống, các văn quan như Tô Thức, Mễ Phất (Mễ Phế), và Lý Công Lân đã khởi sinh một phong cách hội họa gọi là «văn nhân hoạ» – cũng gọi «sĩ đại phu hoạ» (hội họa của các văn nhân, sĩ đại phu) – tương phản với phong cách chính thống của viện phái. Khi người Mông Cổ chiếm Trung Quốc, giới nho sĩ Hán tộc bị nhấn chìm dưới đáy xã hội. Các nho sĩ văn nhân thường thành lập những hội tương tế. Trong hoàn cảnh đó, các tác phẩm hội họa được xem là phương thức để đền ơn đáp nghĩa.
|
Tranh của Triệu Mạnh Phủ đời Nguyên |
Trong hệ thống giáo dục Lục Nghệ của Nho giáo, các nho sĩ cũng thường phải giỏi về thư pháp. Do đó văn nhân hoạ đã phản ánh kỹ pháp của thư pháp. Theo Triệu Mạnh Phủ – một đại thư hoạ gia đời Nguyên thuộc văn nhân hoạ phái – những nét cứng cỏi của chữ triện hoá thân thành những cành cây, thân cây; còn tám nét cơ bản của thư pháp (tức vĩnh tự bát pháp: tám nét của chữ vĩnh) thì hoá thân thành các lá cây như lá lan lá trúc. Những nét bút khô mực tạo thành dáng thô nhám sần sùi, thích hợp vẽ đá. Người thưởng ngoạn sành điệu có thể nhận ra kỹ pháp của thư gia trong cách vận bút của hoạ gia.
Các hoạ gia thuộc văn nhân hoạ phái chuộng tranh đơn sắc, thường là màu mực đen với những mức độ đậm nhạt của mực. Những tranh vẽ tứ quân tử (mai, lan, cúc, trúc) chỉ bằng mực đen do đó được gọi tương ứng là «mặc mai, mặc lan, mặc cúc, mặc trúc». Tứ đại hoạ gia cuối đời Nguyên (gọi là Nguyên tứ gia: Hoàng Công Vọng, Nghê Tán, Vương Mông, và Ngô Trấn) đã phát triển cao độ nghệ thuật tranh sơn thủy theo phong cách văn nhân hoạ. Nghê Tán (1301-1374) là một trường hợp đặc biệt. Ông quê ở Vô Tích, gần Đại Vận Hà và Thái Hồ. Ông làu thông kinh điển nho gia và khổ công nghiên tập hội hoạ từ tranh của các hoạ gia tiền bối trong các bộ sưu tập của bạn bè khá giả của ông. Mùa xuân 1352, trong bầu không khí chính trị, kinh tế, và xã hội bất ổn của triều đại Nguyên đang sụp đổ, ông buộc phải rời quê hương, rồi sống trên một chiếc ghe lênh đênh 20 năm trên Thái Hồ. Cuộc sống phiêu bạt ẩn dật như một đạo sĩ đó là cách mà ông chọn để bảo vệ tiết tháo và tránh sự bức hại của quan quân triều Nguyên. Các hoạ gia đời Minh và Thanh hâm mộ và khen ngợi ông là «Nghê cao sĩ». Ông dụng bút công phu tinh tế mà tranh toát vẻ giản phác tiêu sơ, chủ yếu là tả cảnh Thái Hồ. Hoạ pháp sơn thủy của Nguyên tứ gia ảnh hưởng rất lớn đến các họa gia thuộc văn nhân phái đời Minh (như Thẩm Chu, Văn Trưng Minh, Đổng Kỳ Xương) và đời Thanh (như Tứ Vương: Vương Thời Mẫn, Vương Giám, Vương Huy, và Vương Nguyên Kỳ).
TỨ QUÂN TỬ TRONG HỘI HỌA TRUNG QUỐC
|
Trúc mai : «Trúc là quân tử, mai là giai nhân.» – tranh của Thạch Đào đời Thanh |
Mai, lan, trúc, cúc là đề tài quen thuộc trong hội họa Trung Quốc. Bốn chủng loại này đều có tính cách cao nhã. Mai nở vào mùa đông và xuân, chịu đựng lạnh lẽo. Lan kiều diễm mảnh mai, hương thơm thâm trầm. Trúc ngay thẳng, vô tâm, đầy tiết tháo. Cúc trải sương giá mà chẳng héo hon, có ý chí thách đố thiên nhiên. Thế nên các văn nhân Trung Quốc ái mộ mà đặt tên cho bốn loại này là Tứ quân tử.
Hơn hai ngàn năm trước, thi nhân Khuất Nguyên đã so sánh hoa lan với mỹ nhân rằng: «Thu lan hề thanh thanh, lục diệp hề tử hanh. Mãn đường hề mỹ nhân, hốt độc dữ dư hề thả thành.» (Thu lan ơi mườn mượt, cọng tía cùng lá xanh. Đầy nhà toàn người đẹp, riêng với ta đưa tình.)
Hoa cúc trác việt siêu phàm. Đào Tiềm, thi nhân đời Tấn, từng thốt rằng: «Thu cúc hữu giai sắc, ấp lộ chuyết kỳ anh, phiếm thử vong ưu vật, viễn ngã di thế tình.» (Hoa cúc mùa thu có sắc đẹp, phơi lộ nét anh tú, khiến ta quên tình buồn, lánh xa tình đời.)
Đời Tống có ẩn sĩ Lâm Bô yêu hoa mai đến độ không cần có vợ con, chỉ chuyên tâm trồng hoa mai và nuôi hạc. Người đời tặng cho ông câu «mai thê hạc tử» (hoa mai là vợ, chim hạc là con).
Yêu trúc có thể kể đến Tô Thức. Ông nói: «Ninh khả thực vô nhục, bất khả cư vô trúc.» (Thà ăn không có thịt chứ không thể ở thiếu trúc). Như vậy đủ biết địa vị của trúc được đề cao như thế nào và các tao nhân mặc khách đều xem trúc là người bạn đường không thể thiếu được.
Các họa gia cũng có cảm tình sâu đậm với tứ quân tử. Mai, lan, trúc, cúc và hội họa Trung Quốc quả có cái duyên không lìa. Trải bao tháng năm lịch sử, nhiều họa gia hậu bối đã cải tiến họa pháp, thể hiện nhiều nét tân kỳ bất tận.
Chủ đề tứ quân tử có tự bao giờ vẫn là vấn đề còn tranh cãi. Theo quyển Thập Quốc Xuân Thu Ký một vị tướng quân của triều Nam Đường tên là Quách Sùng Thao khi chinh phạt nước Thục đã bắt nhiều người. Trong số ấy có Lý phu nhân bị ông ép làm vợ. Lý phu nhân thường u sầu ủ rũ, thích ngồi một mình dưới trăng, ngắm cành trúc la đà. Do xúc cảm, bà dùng bút và mực đen vẽ nên tranh. Người ta cho rằng mặc trúc (trúc vẽ bằng mực đen) bắt đầu từ dạo ấy. Nhưng vị tất mặc trúc bắt đầu từ Lý phu nhân. Người ta biết chắc chắn tranh hoa điểu bắt nguồn từ đời Đường vậy thì bảo mặc trúc có từ Hậu Đường cũng có thể tin được.
|
Trúc - tranh của Từ Vị đời Minh |
Mai, lan, trúc, cúc bước vào hội họa chẳng qua vì chúng hàm hữu ý vị tượng trưng văn học, tiêu biểu đức hạnh của người quân tử. Đời Tống có Văn Đồng, Tô Thức nổi tiếng về mặc trúc, Thôi Bạch với mặc mai, Trịnh Tư Hữu, Triệu Mạnh Kiên với mặc lan, cho đến Triệu Xương, Hoàng Cư Bảo với mặc cúc. Tất cả nhưng danh họa gia này đã vun xới một mảnh đất, khai phóng một con đường giúp cho hội họa các triều đại kế tiếp được phát triển dễ dàng.
Lan – tranh của Kim Nông (1687-1764)
Vào đời Nguyên mặc trúc đã thịnh hành với các danh gia như Cao Phòng Sơn, Lý Tức Trai, Kha Cửu Tư, Nghê Vân Lâm, Ngô Trọng Khuê, Cố Định Chi, Triệu Mạnh Phủ, Quản Trọng Cơ, v.v... Đặc biệt, Lý Tức Trai đã thâm nhập một ngôi làng trúc, nghiên cứu mọi tư thế của cây trúc, viết thành một quyển sách để đời gọi là Trúc Phổ. Kha Cửu Tư biên soạn quyển Họa Trúc Phổ nghiên cứu họa pháp về trúc đời Tống, có thể xem là sách gối đầu giường cho người sơ học.
Cúc – tranh của Kim Nông (1687-1764)
|
Trúc – tranh của Ngô Trấn đời Nguyên |
Đến đời Minh, tranh mai, lan, trúc, cúc cực thịnh, danh họa gia cũng nhiều như Tống Khắc, Vương Phất, Hạ Xưởng, Lỗ Đắc Chi, v.v... Nổi tiếng nhất là Hạ Xưởng. Ông tự Trọng Chiêu, bắt đầu học vẽ trúc và đá nơi Vương Phất. Về sau ông tự cải tiến lối vẽ trúc: thân trúc thẳng tắp ngạo nghễ, có sắc khói sương, chỗ đậm chỗ nhạt chỗ xơ xác cực kỳ ảo diệu. Thuở ấy có câu ca: «Hạ hương nhất cá trúc, Tây lương thập đĩnh kim.» (Một cành trúc nơi quê ông Hạ Xưởng trị giá mười nén vàng ở Tây Lương).
Danh gia tiêu biểu về mặc mai có Vương Miện và Trần Hiến Chương.Vương Miện tự là Nguyên Chương vẽ mai thướt tha tiêu sái nổi tiếng đương thời. Vương Miện và Hạ Xưởng là cặp danh gia lừng lẫy; một người về mai, một người về trúc.
Các họa gia đời Thanh vẫn tuân thủ họa pháp đời Minh. Nổi tiếng là Thạch Đào và Bát Đại Sơn Nhân, hai di thần triều Minh. Khi Mãn Thanh lật đổ nhà Minh, Bát Đại Sơn Nhân giả điên giả câm chạy trốn vào núi lánh nạn, một thời làm hòa thượng, một thời làm đạo sĩ. Bát Đại Sơn Nhân thuộc giòng dõi hoàng tộc, tên là Chu Đáp. Bút hiệu của ông ngụ ý sâu sắc: Sơn Nhân có nghĩa là người ẩn dật nơi sơn dã, còn Bát Đại 八大 khi viết thảo theo hàng dọc, chữ bát 八 thành hai chấm đè lên chữ đại 大, chúng gần giống chữ tiếu 笑 (cười) hay chữ khốc 哭 (khóc), bày tỏ tâm trạng dở khóc dở cười. Ông dùng hội họa để tiêu sầu, họa pháp chủ về tả ý, đơn sơ mạnh bạo nhưng sống động, chất chứa nỗi lòng u ẩn. Họa pháp của Thạch Đào và Bát Đại sơn nhân phóng túng tiêu sái không tuân theo những qui tắc sẵn có, nên có thể đứng riêng thành một tân họa phái. Ngoài ra có thể kể thêm một số danh họa gia đời Thanh như Trịnh Tiếp nổi tiếng về lan trúc, Lý Phương Ưng, Kim Nông, Uông Sĩ Thận nổi tiếng về mặc mai. Các họa gia cận đại như Triệu Huy Thúc, Ngô Xương Thạc, Tề Bạch Thạch sáng tạo nhiều nét tân kỳ có thể gọi là cao thủ về mai, lan, trúc, cúc.
Tứ quân tử chiếm một vị trí đặc biệt trong hội họa Trung Quốc. Qua từng thời đại các danh họa gia đã góp phần sáng tạo và thể hiện tứ quân tử thêm tân kỳ. Ngày nay các họa gia Trung Quốc đã mạnh dạn thâu hóa họa pháp Tây phương. Môn họa truyền thống này sẽ phát triển như thế nào vẫn còn là vấn đề thú vị mà người ta chưa tiên đoán được.
|
Tranh của Triệu Cát (tức vua Tống Huy Tông) |
Tranh hoa điểu ngư trùng (hoa cỏ, chim chóc, cá, côn trùng) của Trung Quốc có nguồn gốc lâu đời. Kể từ đời Đường và đời Tống trở về sau, loại tranh này kết hợp giữa hội họa và văn học. Ở Âu Châu, từ thời Phục Hưng cho tới nay loại tranh đề tài bướm, thảo trùng, hoa cỏ không phải là hiếm. Nhưng những đề tài này trong lối họa sơn dầu Tây phương không hàm ý nghĩa tượng trưng văn học. Đó là nét đặc trưng của hội họa truyền thống Trung Quốc, khác biệt với lối họa sơn dầu Tây phương. Đã bao triều đại qua, các họa gia cũng rất thường là thi nhân, văn sĩ, dùng hội họa để tải đi những thi tứ của mình. Khuynh hướng này đặc biệt hiện rõ trong loại tranh hoa điểu.
Văn nhân Trung Quốc thường gán cho từng loại hoa một đức tính, một ý nghĩa tượng trưng văn học nào đó, và các họa gia đã tiếp thu toàn bộ những quan niệm này. Chẳng hạn Chu Đôn Di 周惇頤, một đại nho đời Tống, từng nói: «Trong các loài hoa, cúc là kẻ ẩn dật, mẫu đơn là kẻ phú quý và sen là bậc quân tử vậy.» (Cúc, hoa chi ẩn dật giả dã; mẫu đơn, hoa chi phú quý giả dã; liên, hoa chi quân tử giả dã. 菊花之隱逸者也牡丹花之富貴者也蓮花之君子者也).
|
Song thọ - Tranh Tề Bạch Thạch (1863-1957) |
Quan niệm cúc là kẻ ẩn dật có lẽ phát xuất từ Đào Tiềm 陶潛 tức Đào Uyên Minh 陶淵明 đời Tấn, một thi sĩ vĩ đại, chán cảnh làm quan luồn cúi, treo áo từ quan, hưởng thú điền viên, vui cảnh nghèo, thích uống rượu chơi cúc và nhàn du. Người đời khen ông là bậc ẩn dật cao khiết. Trong bài Ẩm Tửu 飲酒 của ông có nhắc đến hoa cúc: «Hái cúc dưới giậu đông, thơ thới nhìn núi Nam.» (Thái cúc đông ly hạ, du nhiên kiến Nam Sơn. 採菊東籬下悠然見南山.) Người ẩn sĩ này uống rượu ngắm cúc để quên cảnh náo nhiệt, trầm luân trong đời, cho nên hoa cúc cũng là biểu tượng của kẻ ẩn dật lánh đời vậy.
Người giàu có ưa chuộng màu sắc lộng lẫy rực rỡ của mẫu đơn. Mẫu đơn là loài hoa quý hiếm, chỉ có bậc quyền quý đài các mới chơi hoa này. Cho nên mẫu đơn là biểu tượng của sự giàu sang phú quý. Hoa sen là cốt cách của bậc quân tử. Đẹp và ngát hương, gần bùn mà chẳng tanh bùn. Dù cuộc đời ô trọc, nhân tình ấm lạnh, bậc quân tử vẫn giữ được tiết tháo của mình, thơm tho và tinh khiết như đóa sen kia.
Hoa kết hợp với điểu, thảo trùng, cá, đá và các khí vật khác cũng tăng thêm thi ý cho tranh, tạo cho tranh có chủ đề mới. Thường đó là lời chúc nguyện cát tường. Chẳng hạn: «Tùng hạc diên niên» 松鶴延年 (tùng và hạc sống lâu) là chủ đề tranh dùng chúc thọ, bởi vì theo truyền thuyết, người Trung Quốc tin rằng hạc sống đến ngàn năm (Hạc thọ thiên tuế 鶴壽千歲). Người Trung Quốc có thói quen tặng tranh tùng hạc mừng lễ thượng thọ của các bậc trưởng thượng.
Thi nhân cho rằng chim én là loài chim nhỏ có cảm tình, mùa thu và mùa đông bay đi tìm cái ấm áp của miền nhiệt đới và mùa xuân quay về tổ cũ. «Xuân phong yến hỉ» 春風燕喜 (chim yến vui trong gió xuân) mô tả một đôi én về tổ trong cành liễu xanh phất phơ hay cành đào hồng thắm. Một bức tranh với đôi én hoặc một bức tranh với cặp hồng nhạn 鴻雁 hay đôi uyên ương bơi lội trong ao sen chính là biểu tượng tình nghĩa vợ chồng, gia đình khang lạc. Dưới cội mai vàng (biểu tượng của Phúc) là đôi chim cun cút hoặc một đàn gà con cùng gà trống gà mái cũng là biểu tượng của ân nghĩa tao khang, quan hệ nhân luân. Tranh phụ đề «ân nghĩa tại sinh tiền» 恩義在生前 (ân nghĩa đối với nhau lúc còn sống) thật là cảm động và thâm trầm biết bao!
Tranh «Thập toàn báo hỉ» 十全報喜 vẽ mười con chim khách đậu trên phiến đá và trên cây tùng hót líu lo báo tin mừng (chim khách được tin tưởng là báo điềm lành nên tục gọi nó là «hỉ thước» 喜鵲), tranh để chúc sự nghiệp thành công.
Mẫu đơn phối hợp với cá lội là biểu tượng: «Phú quý hữu dư» 富貴有餘 (phú quý dư dật) là lời chúc nguyện tốt đẹp vào ngày đầu năm. Mẫu đơn vẽ chung với khổng tước (chim se sẻ) mang tên «Khổng tước khai bình» 孔雀開屏 là tranh chúc mừng khai trương cửa tiệm. Hoa xuân điểm thêm vài cánh bướm, tạo sinh động cho tranh. Bướm là điệp 蝴 (hay hồ điệp 蝴蝶) đồng âm /dié/ với điệp 疊 (trùng điệp 重疊). Tranh mẫu đơn điểm thêm cánh bướm ngụ ý phú quý trùng điệp 富貴重疊. Hoặc trên cánh hoa vẽ con dế, cho ta hình dung tiếng thu đang về rồi với tiếng nhạc để râm ran đâu đây.
Từ đời Đường (618-907) trở về trước, hoa điểu được vẽ chỉ để trang sức cho khí cụ đồ vật, hoặc để điểm xuyết thêm cho nhân vật. Bắt đầu từ đời Đường là thời kỳ phồn thịnh phú cường trong lịch sử Trung Quốc. Giao thông phát triển, giao lưu văn hóa với các dân tộc, kinh tế xã hội phồn vinh, văn học nghệ thuật được đề cao. Đến nỗi mãi đến những thế kỷ gần đây mà người Trung Quốc vẫn quen xưng là «Đường nhân» 唐人 một cách tự hào. Cho nên trong bối cảnh học thuật văn nghệ rực rỡ như vậy, không riêng gì tranh hoa điểu mà tranh nhân vật, tranh sơn thủy cũng phát dương, tài bồi có qui củ và hệ thống hơn.
Quyển Đường Triều Danh Họa Lục 唐朝名畫錄 có kể ra trên hai mươi họa gia chuyên về hoa điểu. Trong đó nổi bật nhất là Biên Loan 邊鸞, Điêu Quang Dẫn 刁光引, và Đằng Xương Hựu 滕昌祐. Điêu Quang Dẫn là thầy của Hoàng Thuyên 黃筌 và Từ Hi 徐熙. Điêu Quang Dẫn được mệnh danh là tổ sư về tranh hoa điểu cho đời sau. Thời Ngũ Đại (907-960) trong cục diện thập quốc phân loạn, tranh hoa điểu vẫn phồn thịnh; đương thời có «Từ Hoàng nhị thể» 徐黃二体 nghĩa là hai lối vẽ, một của Từ Hi và một của Hoàng Thuyên. Họa pháp Từ và Hoàng bất đồng. Hoàng là họa gia chốn cung đình, chủ trương tả chân. Từ là dân áo vải đất Giang Nam, bút pháp khoáng đạt nghiêng về tả ý. Hoàng thiện nghệ về chim tước, Từ sở trường về ve sầu, bướm và thảo trùng khác. Quách Nhược Hư 郭若虛 trong quyển Đồ Họa Kiến Văn Chí 圖畫見聞志 đã nói: «Hoàng gia phú quý, Từ Hi dã dật.» 黃家富貴徐熙野逸 (Họ Hoàng mô tả cảnh phú quý, Từ Hi mô tả cảnh điền dã an nhàn.) Điều đó thật dễ hiểu. Hoàng là họa sĩ nơi đế đô chuyên vẽ những trân cầm thụy điểu trong cung đình, còn Từ là Giang Nam xử sĩ quen vẽ dã trúc uyên ngư chốn giang hồ. Như vậy thời Ngũ Đại họa pháp hoa điểu đã thể hiện rõ hai phái: tả thực 寫實 (realistic style) và tả ý 寫意 (impressionistic style). Hai phong cách này càng được phát dương vào đời Tống (960-1276).
Tranh hoa điểu đời Tống phát triển trên cơ sở «Từ Hoàng nhị thể» của thời Ngũ Đại. Con trai của Hoàng Thuyên là Hoàng Cư Thái 黃居 寀 rất nổi tiếng, được vời vào Hoàng Gia Hàn Lâm Họa Viện, rất được sủng ái chốn hoàng cung. Thanh thế gia đình họ Hoàng càng lớn mạnh, người ái mộ Hoàng thế cũng lắm mà kẻ a dua thì cũng nhiều. Ảnh hưởng họa pháp của hai họ Hoàng và Từ không những trong cung đình mà còn lan khắp ra ngoài nữa. Từ các đời vua Tống về sau, phong cách dã dật của họ Từ cũng được hâm mộ. Con cháu của Từ Hi là Sùng Tự 崇嗣, Sùng Huân 崇勳 và Sùng Củ 崇矩 nổi tiếng từ đó. Phong cách thịnh hành bấy giờ là phối hợp Từ Hoàng nhị thể với nhau. Tiêu biểu phong cách phối hợp này là anh em Thôi Bạch 崔白 và Thôi Khác 崔愨 cùng với Ngô Nguyên Du 吳元渝. Người đời khen phong cách của anh em Thôi và họ Ngô là thanh đạm nhã dật. Bên cạnh họ, Triệu Xương 趙昌 và Dịch Nguyên Cát 易元吉 cũng rất nổi tiếng. Các danh thủ về hoa điểu có thể kể thêm như Ngải Tuyên 艾宣, Vương Hiểu 王曉, Triệu Cát 趙佶, Mã Bôn 馬賁, Đái Uyển 戴琬, Hàn Nhược Chuyết 韓若 拙, v.v... Triệu Cát tức là vua Huy Tông 徽宗 cuối đời Bắc Tống. Ông vua nghệ sĩ này rất tài hoa về thư pháp, sơn thủy, và nhân vật, đặc biệt là hoa điểu. Hiện nay tranh hoa điểu của ông vua này là cao giá nhất trong các tranh điểu đời Tống. Tống Huy Tông được khen ngợi về nghệ thuật bao nhiêu thì càng bị chê về chính trị bấy nhiêu. Thời ông, triều đình mục nát, xã hội nhiễu nhương, triều đình chỉ trông cậy đám phường thị thái giám, để giặc Kim tràn lấn cõi bờ.
|
Chim ưng và tùng
tranh Từ Bi Hồng (1895-1953) |
Đời Tống phát triển một họa pháp gọi là Văn nhân họa pháp 文人畫法 (literati style) do Tô Thức 蘇軾 (Tô Đông Pha 蘇東坡) và Mễ Phế (Mễ Phất) 米芾 khai sinh ra. Lúc bấy giờ các văn nhân rất sính hội họa và thư pháp. Quan niệm Tô Thức và Mễ Phế cũng như các họa gia tài tử khác cho rằng hội họa bất tất phải sao chép thiên nhiên, mục đích của hội họa là gia tăng thi hứng, không cần phải mô tả sự vật. Bút và mực du hí trên trang giấy, những nét bút tiêu sái của nghệ sĩ cốt là bày tỏ được ý tình mà thôi. Tô Thức nói: «Luận họa dĩ hình tự, kiến dữ nhi đồng lân.» 論畫以硎似見與兒同鄰 (Luận về tranh mà căn cứ trên hình thể giống như thật thì đó là tiêu chuẩn của trẻ con). Còn Mễ Phế thì bảo: «Hào phóng bất câu thằng kiểm.» 毫放不拘繩檢 (Nét bút phóng khoáng không câu chấp vào khuôn mẫu có sẵn.) Đối chiếu với hội họa Âu Châu, mãi đến thế kỷ XIX vẫn còn thiên về tả thực, thì quan niệm nghệ thuật của Tô Thức và Mễ Phế (thế kỷ XII) nói trên quả là phóng khoáng, đi trước Tây phương tới sáu bảy trăm năm vậy. Nhưng cuối đời Tống, quan niệm về văn nhân họa pháp chỉ mới ở giai đoạn phôi thai, mãi đến đời Nguyên-Minh và Thanh quan niệm này mới phát triển sâu rộng.
Đời Nguyên (1234-1368) dân Mông Cổ thống trị Trung Quốc, tôn trọng võ công, khinh miệt văn học nghệ thuật. Nguyên Thái Tông (1229-1245) chia dân làm 10 giai cấp: quan (người Mông Cổ), lại, sư sãi, đạo sĩ, thầy thuốc, dân công nghệ, thợ thuyền, đào kép hát, nho sĩ, và ăn mày. Kẻ sĩ bị khinh bỉ, chỉ hơn lũ ăn mày; khoa cử bị bãi bỏ trong một thời gian lâu. Trong bối cảnh đó, dĩ nhiên hội họa cũng không thể nào phát triển được. Các họa gia về hoa điểu phân làm hai phái: phái phục cổ và phái tự do. Phái phục cổ gồm có Tiền Tuyển 錢選, Vương Uyên 王淵, Trần Trọng Nhân 陳仲仁, v.v... Họ chủ trương mô phỏng họa pháp họa gia đời trước như Hoàng Thuyên, Triệu Xương, tức là lối công bút mỹ lệ. Phái tự do thì tuân thủ quan niệm văn họa pháp của Tô Thức và Mễ Phế đời Tống, nhưng không có ai nổi bật.
Đời Minh (1368-1644), kể từ Chu Nguyên Chương (một anh hùng áo vải phất cờ khởi nghĩa lật đổ nhà Nguyên) lên ngôi, nền học vấn nghệ thuật được phục hưng, khoa cử được coi trọng. Tuy nhiên dẫu Hàn Lâm Họa Viện đã khôi phục lại, người tài được chiêu vời đến, nhưng các vua đời Minh chuyên chế, quen nghiêm hình tuấn phạt, cho nên các họa gia không dám thoát ra khuôn phép cũ: sáng tác phải phụng thừa thánh chỉ, phần lớn mô phỏng ý tứ của cổ nhân, nhất nhất đều chỉ nhằm tránh được lỗi lầm. Hiện tượng sao chép cổ nhân không chỉ trong họa giới mà còn trong văn giới nữa. Tiêu biểu cho phái phục cổ tranh hoa điểu là Biên Văn Tiến 邊文進 và Lã Kỷ 呂紀. Về sau có cha con Lâm Lương 林良 mới nổi tiếng về thủy mặc hoa điểu theo lối tả ý. Giữa đời Minh về sau, lối tả ý mới thịnh hành. Các cao thủ về hoa điểu tả ý có Trần Thuần 陳淳 và Từ Vị 徐渭. Chu Chi Miện 周之冕 nổi tiếng về sáng kiến vẽ hoa rất tỉ mỉ còn vẽ lá thì theo lối tả ý, tức là kết hợp công bút với ý bút. Trong khi đó Trần Hồng Thụ 陳洪綬 nổi bật với tranh hoa điểu theo lối công bút cố hữu của ông.
Lan – tranh Kim Nông (1687-1764)
Đến đời Mãn Thanh (1644-1911) dân tộc Mãn thống nhất Trung Quốc. Nhiều phong trào phản Thanh phục Minh nổi dậy. Tướng Trịnh Thành Công khởi nghĩa vùng Giang Nam, Chiết Giang, sau lập căn cứ ở đảo Đài Loan, mộng không thành, ôm hận mà chết. Còn Mạc Cửu thì sang Hà Tiên (Việt Nam) lập nghiệp, không chịu khuất thân với Thanh triều. Nhà Thanh một mặt thẳng tay đàn áp người khởi nghĩa phục Minh, một mặt biết chiêu dụ nhân tài, thu dùng kẻ sĩ. Các vua Khang Hi và Càn Long vừa giỏi võ nghệ vừa trọng văn hóa, cho nên văn học nghệ thuật cũng rất thịnh. Về phương diện hội họa, các họa gia vẫn tuân thủ quy phạm điển chương họa pháp đời Minh, nghĩa là vẫn mô phỏng cổ nhân, không có gì đặc sắc về mặt sáng tác. Tuy nhiên riêng về hoa điểu có nhiều phát triển. Uấn Nam Điền 惲南田 nổi tiếng về lối vẽ không viền nét (một cốt họa pháp) được coi là phương cách thể hiện màu hoa tươi tắn và mềm mại. Ngoài ra còn có Hoa Nham 華嵒, Lý Thiện 李鱓, Kim Nông 金農 đều sở trường về hoa điểu, bút pháp giản dị độc đáo. Bút pháp tân kỳ nhất là của hai di thần nhà Minh: Thạch Đào Hòa Thượng 石濤和尚 và Bát Đại Sơn Nhân 八大山人 mang tâm trạng bi thống của kẻ vong quốc, khí bút hào phóng dị kỳ.
|
Hoa sen – tranh của Bát Đại Sơn Nhân |
Cuối đời Thanh, giao thông giữa Đông và Tây thường xuyên hơn. Tất nhiên lối họa truyền thống Trung Quốc và lối họa Tây phương cũng có ảnh hưởng hỗ tương nhất định. Tuy vậy đa số họa gia Trung Quốc vẫn duy trì phong cách hội họa truyền thống của họ. Về hoa điểu, công bút có Nhiệm Bá Niên 任伯年, ý bút có Tề Bạch Thạch 齊白石, Ngô Xương Thạc 吳昌碩, Cao Kỳ Phong 高奇峰, Cao Kiếm Phụ 高劍父, Trần Thụ Nhân 陳樹人, Vu Phi Ám 于非闇, Từ Bi Hồng 徐悲鴻...
Cao Kỳ Phong, Cao Kiếm Phụ, Trần Thụ Nhân, Triệu Thiếu Ngang 趙少昂, Lê Cát Dân 黎葛民 được coi là những người khai sáng họa phái Lĩnh Nam 嶺南, một họa phái kết hợp sáng tạo lối vẽ cổ truyền Trung Quốc và lối vẽ Tây phương cận đại. Chi phái Lĩnh Nam tại Việt Nam do ông Lương Thiếu Hàng 梁少航 sáng lập (môn đệ của Triệu Thiếu Ngang). Ông Lương tạ thế, môn đệ là Lý Tùng Niên 李松年 kế tục, lập nên nhóm Nam Tú Nghệ Uyển 南秀藝苑 tại Chợ Lớn ngày nay.
|
Cảnh chăn ngựa trong thực tế
|
Ngựa là chủ đề quen thuộc trong tranh Trung Quốc. Ðể hiểu lý do tại sao tranh Trung Quốc thường có một chủ đề như vậy, chúng ta cần xét hai điểm: một là ý nghĩa và giá trị đích thực của ngựa trong lịch sử Trung Quốc và hai là ý nghĩa biểu tượng của ngựa trong quan niệm dân gian.
Ngựa (equus caballus) đóng vai trò rất quan trọng trong lịch sử Trung Quốc. Nguồn gốc ngựa của Trung Quốc là từ Trung Á nhưng các chủng loại ngựa phổ biến hiện nay có gốc Mông Cổ. Ngựa đã xuất hiện ở Trung Quốc tự bao giờ? Giống động vật lớn này được thuần dưỡng tại Trung Quốc có lẽ khoảng 2500 năm tcn, nghĩa là cách nay khoảng trên 4000 năm. Ðó là loài gia súc quý báu, sang trọng, cần chăm sóc đặc biệt. Những mảnh giáp cốt khai quật cho thấy ngựa đã được sử dụng vào đời Thương 商. Cuối đời Thương, việc nuôi ngựa và sử dụng xe ngựa càng thấy rõ. Sử Ký Tư Mã Thiên từng ghi chép rằng dân đời Thương rất giỏi buôn bán, họ đã đánh xe đến những nơi xa xôi buôn bán rồi quay về. Từ ngữ Thương nhân 商人 ban đầu ám chỉ cụ thể là «dân đời Thương» về sau được dùng để chỉ tất cả những người hoạt động kinh doanh (cũng giỏi giang như dân đời Thương); và đây chính là từ nguyên của từ tố «thương» trong các từ ngữ thương nghiệp 商業, thương mại 商賣, thương nhân 商人, v.v...
Nhiều người chưa quen với ý nghĩ cho rằng việc cưỡi ngựa cũng là một phát minh quan trọng như bao phát minh khác. Song song với việc nuôi ngựa là sự xuất hiện của các chiến xa hai bánh do ngựa kéo. Tuy nhiên, theo Wolfram Eberhard, xe ngựa không phải là phát minh của Trung Quốc, mà nó được du nhập từ Thổ Nhĩ Kỳ. Các chiến xa hai bánh phổ biến cuối đời Thương chở ba người: người đánh xe, chiến sĩ (giới quý tộc), và người phục dịch (thí dụ đưa mũi tên hoặc trao vũ khí cho chiến sĩ sử dụng). Chiến xa là tài sản quý giá phải do thợ chuyên nghiệp chế tạo. Lúc đầu xe có hai càng, về sau cải tiến một càng cho hai ngựa kéo. Ngựa thì luôn đắt và hiếm tại Trung Quốc, và trong nhiều thời kỳ lịch sử của Trung Quốc, ngựa được mua trực tiếp từ các bộ tộc du mục ở các phương Bắc và Tây. Ðồng thời, Trung Quốc đã tiếp thu thuật sử dụng ngựa như chiến mã, thuật nuôi dưỡng, thắng yên cương, v.v... tức là tiếp thu nền văn minh thảo nguyên của các bộ tộc du mục như Ðột Quyết, Hung Nô, Si Vưu, Mông Cổ.
Trong chiến tranh ở Trung Quốc cổ đại, ngựa giữ vai trò rất quan trọng có thể gọi là nền tảng của sức mạnh quân sự. Các kỵ binh du mục trên lưng các chiến mã thần tốc và dũng mãnh luôn là mối kinh hoàng cho binh quân của Trung Quốc. Do đó Trung Quốc rất quan tâm tới vấn đề cung cấp và huấn luyện ngựa cho quân đội. Binh bộ vì thế cũng gọi là Tư Mã 司馬. Vì ngựa rất cần cho quân đội, nên nghề buôn ngựa có quan hệ đến giới lãnh đạo quân đội và chính trị của triều đình (như trương hợp của Lã Bất Vi, tương truyền ông là một người buôn ngựa). Một trong những danh tướng đời Hán là Mã Viện (14 tcn-49 cn) (tức Phục Ba tướng quân) nổi tiếng là sành ngựa. Tổ tiên của Mã Viện vốn là quan tướng của nước Triệu, một nước chuyên xuất khẩu ngựa và có lực lượng kỵ binh hùng mạnh. Tổ tiên của Mã Viện có danh hiệu là Mã Phục Quân (người giỏi thuần dưỡng ngựa) và vì thế con cháu về sau đều lấy họ Mã. Chính Mã Viện ban đầu là nhà chăn nuôi giàu có ở biên giới phía bắc, chuyên nuôi trâu, bò, cừu, ngựa. Ông có công chiến đấu giúp thành lập nhà Hậu Hán, nên trở thành danh tướng, và đã gả con gái cho một hoàng tử. Mã Viện thích cưỡi ngựa bắn cung. Mã Viện từng lấy một trống đồng (chiến lợi phẩm) nấu ra và đúc thành hình con ngựa, trên đó ghi dấu những vị trí mà người giám định ngựa cần biết, ngoài ra ông còn khắc nguồn gốc hiểu biết và kinh nghiệm về ngựa của ông tức là ông khắc tên thầy dạy ngựa cho ông và tên thầy của vị thầy đó, cứ thế lần lên đến 4 đời thầy dạy ngựa. Ông còn khắc trên tượng ngựa đồng rằng: «Ngựa là cơ sở của sức mạnh quân sự, là tài nguyên lớn của quốc gia.» Theo từ điển Từ Hải ghi chép, quan điểm của Mã Viện về chí khí nam nhi phải là xông pha trận mạc, da ngựa bọc thây, chứ không phải nằm chết trên giường trong vòng tay của thê tử.
Tranh Hàn Cán (đời Đường)
Ngoài giá trị quan trọng của ngựa trong vận tải và quân sự, người ta còn tìm thấy giá trị y học của ngựa, được mô tả trong Bản Thảo Cương Mục (xuất bản 1596). Theo sách này, chữ mã 馬 (ngựa) trong Hán văn là chữ tượng hình (xem hình bên cạnh), phác họa hình dáng của ngựa. Rồi sách liệt kê tên các chủng loại ngựa và loại nào có tác dụng về mặt y học kèm theo sự mô tả giản lược, chẳng hạn giống ngựa thuần bạch là có tác dụng y học rất tốt. Loài ngựa phương nam và phương đông thì nhỏ thó và yếu đuối. Muốn biết tuổi ngựa thì xem răng của nó. Cho ngựa ăn lúa thì chân nó sẽ nặng nề. Cho nó ăn phân chuột thì bụng nó sẽ dài ra, v.v... (đại khái là cách nuôi dưỡng ngựa). Một tác phẩm khác xuất hiện vào thế kỷ XVII cn là Mã Kinh (sách kinh điển giảng về ngựa), trong đó ghi chép cách xem tướng ngựa, v.v...
Tranh Hàn Cán (đời Đường)
Vì những giá trị thực tế và quan trọng (thậm chí rất quý giá) của ngựa trong lịch sử Trung Quốc như vậy, nên không có gì ngạc nhiên khi ngựa trở thành một đề tài quen thuộc trong hội họa Trung Quốc. Tuy nhiên, còn một lý do khác nữa để giải thích điều này, xuất phát từ quan niệm dân gian.
Dân gian cho rằng ngựa có đức tính trinh tiết, ý thức rõ quan hệ truyền chủng, không vi phạm cái mà luân lý loài người gọi là loạn luân. Như Dịch Kinh từ đời Chu đã ca ngợi là «Tẫn mã chi trinh» 牝馬之貞 (đức trinh tiết của ngựa cái). Ngựa còn có đức tính trung thành, một đức tính mà Nho gia rất coi trọng trong các mối quan hệ xã hội. Câu chuyện ngựa xích thố của Quan Vân Trường (tức Quan Công) thời Tam Quốc là một giai thoại tiêu biểu.
Người cưỡi ngựa (Nhân kỵ đồ 人 騎 圖 ) - tranh Triệu Mạnh Phủ (đời Nguyên)
Ngựa xích thố mỗi ngày đi nghìn dặm (nên gọi là thiên lý câu). Lúc đầu xích thố thuộc Ðổng Trác. Lý Túc và Lý Nho lập mưu bảo Trác đem vàng bạc châu báu và ngựa xích thố tặng cho Lã Bố để mua chuộc Bố bỏ cha nuôi là Ðinh Nguyên mà đầu quân bên Trác. Khi Bố thua chạy về thành Hạ Bì, bị quân Tào Tháo vây khổn. Thuộc hạ của Bố là Hầu Thành ban đêm trộm ngựa rồi dâng Tào Tháo. Hôm sau hai thuộc hạ khác là Tống Hiến và Ngụy Tục lừa dịp Bố ngủ bèn trộm cây phương thiên họa kích và trói gô Lã Bố đem nạp cho Tháo. Sau khi Tháo xử trảm Lã Bố, ngựa xích thố thuộc về Tháo. Khi Quan Vũ tá túc bên Tào Tháo, được Tháo hết lòng trọng đãi, và ngựa xích thố là món quà của Tháo nhằm mua lòng Quan Vũ. Về sau khi Quan Vũ bị Tôn Quyền chém chết, ngựa xích thố nhịn ăn mà chết. Người đời lập miếu thờ ngài cũng đắp tượng thờ ngựa xích thố, và tục này cũng lan sang Việt Nam. Sự trung thành đối với chủ của ngựa (mã) cũng như chó (khuyển) luôn được người đời coi trọng. Những kẻ bội tín thường bị mạ lị khinh rẻ là thua cả loài chó ngựa.
|
Tranh của Từ Bi Hồng (1895-1953) |
Ngựa – loài vật quý giá với đức tính trinh tiết và trung thành, đứng hàng thứ 7 trong 12 địa chi – xuất hiện trong tranh Trung Quốc như là biểu tượng của sự mau chóng và thành đạt. Thí dụ bức tranh có chủ đề phổ biến nhất là «mã đáo thành công» thể hiện qua một bầy ngựa phi nước đại gió bụi mịt mù. Nguyên ý câu này là «Kỳ khai đắc thắng, mã đáo thành công» 旗開得勝馬到成功 (Cờ phất [làm hiệu thì] chiến thắng, ngựa quay về [báo tin] thành công). Ngày xưa khi xuất binh phải phất cờ hiệu, mà cờ đã phất rồi thì phải chiến thắng; tướng soái khi lấy đầu tướng giặc, chiến mã quay về tất báo tin thành công. Ý nghĩa câu «mã đáo thành công» 馬到成功 ngày nay chỉ còn tượng trưng là tốc chiến tốc thắng. Và một bức tranh «mã đáo thành công» làm quà khai trương cho một cửa hiệu chỉ đơn giản tương tự như là «khai trương hồng phát» 開張鴻發 (mở cửa tiệm thì phát đạt lớn) chứ không có ý là mau chóng thành công nhờ ... cứa cổ khách hàng. Tranh vẽ một chú khỉ (hầu 猴) cưỡi trên lưng ngựa (mã thượng 馬上) lại là một lời cầu chúc tốt đẹp. Hầu 猴 (khỉ) đồng âm hầu 侯 (chức tước hầu); mã thượng 馬上 còn có nghĩa là ngay tức khắc. Do đó tranh chúc này có nghĩa rộng là «Chúc cho mau chóng thăng quan tiến chức».
Bát Tuấn (tám con ngựa hay) của Chu Mục Vương (1001-746) đời Chu cũng là một chủ đề nổi tiếng trong tranh cổ. Mục Vương có 8 tuấn mã, đặt tên khác nhau (Xích Ký, Ðạo Ly, Bạch Nghĩa, Du Luân, Sơn Tử, Cừ Hoàng, Hoa Lưu, Duyên Nhĩ), và có một xa phu tên Tạo Phụ, đánh xe đưa vua ngao du khắp nơi. Trong những miếu thờ dọc đường, người ta thấy tranh vẽ Mã Vương vốn là thần nhân xấu xí có 3 mắt, 4 tay, mang vũ khí. Ðó là thần mà dân nuôi ngựa phải thờ cúng. Tương tự như thế, dân nuôi trâu bò thờ Ngưu Vương, cũng có tranh thờ trong miếu. Mã Vương được vẽ cùng với một con ngựa, Ngưu Vương được vẽ cùng với con trâu. Theo tin tưởng của dân chăn nuôi trâu và ngựạ, hai vị thần này có thể bảo vệ ngựa và trâu bò khoẻ mạnh, không bị tà ma quấy nhiễu.
Tắm ngựa (Dục mã đồ 浴馬圖) - Triệu Mạnh Phủ đời Nguyên
Họa gia vẽ ngựa nổi tiếng đời Ðường thì có Hàn Cán 韓幹 và Tào Bá 曹霸; đời Nguyên thì có Triệu Mạnh Phủ 趙孟頫. Hàn Cán (không rõ năm sinh và năm mất) người Kinh Triệu 京兆 (nay thuộc Thiểm Tây), có thuyết nói ông người Ðại Lương 大梁 (nay thuộc Hà Nam). Ông làm chức Thái Phủ Tự Thừa 太府寺丞 (vào đời Ðường, Thái Phủ Tự là cơ quan phụ trách ngân khố của hoàng cung), nhưng ông lại nổi tiếng về vẽ ngựa và vẽ nhân vật cũng như thầy ông là Tào Bá 曹霸. Tào Bá (không rõ năm sinh và năm mất) người quận Tiêu 譙 (nay là huyện Bạc 亳 của tỉnh An Huy) là họa gia của triều đình, chuyên vẽ ngựa và chân dung các công thần. Ông cũng giữ chức quan Tả Vũ Vệ tướng quân 左武衛將軍. Nhà thơ Ðỗ Phủ xem tranh của Tào Bá vô cùng thích thú và không tiếc lời tán tụng. Ðến đời Nguyên, thư pháp gia kiêm họa gia Triệu Mạnh Phủ (tức Triệu Tùng Tuyết) ghi nhận xét trong Tùng Tuyết Trai Văn Tập rằng: «Ðời Ðường có nhiều họa gia giỏi về vẽ ngựa, nhưng nổi bật nhất là Hàn (Cán) và Tào (Bá).» (Đường nhân thiện hoạ mã giả thậm chúng, nhi Hàn, Tào vi chi tối 唐人善畫馬者甚眾而韓曹為之最).
|
Mùa thu cho ngựa uống nước ở ngoại thành
(Thu giao ẩm mã đồ 秋郊飲馬圖) - Triệu Mạnh Phủ |
Triệu Mạnh Phủ 趙孟頫 (1254-1322) tự là Tử Ngang 子昂, hiệu là Tùng Tuyết đạo nhân 松雪道人, Thủy Tinh Cung đạo nhân 水晶宮道人. Ông là đạo sĩ tại gia, nguyên quán Hồ Châu 湖州 thuộc Chiết Giang 浙江, và dòng dõi tôn thất nhà Tống. Cuối đời Nam Tống ông giữ chức Tư Hộ Tham Quân 司戶參軍 ở Chân Châu 真州. Qua đời Nguyên ông giữ nhiều chức quan như Binh Bộ Lang Trung 兵部郎中, Tập Hiền Trực Học Sĩ 集賢直學士, Tập Hiền Thị Giảng Học Sĩ 集賢侍講學士, Hàn Lâm Học Sĩ 翰林學士, và được phong là Ngụy Quốc Công 魏國公. Người đời khen tặng ông là «Vinh tế ngũ triều, danh mãn tứ hải» 榮際五朝名滿四海 (Vinh hiển trải năm đời vua, danh tiếng đầy bốn biển). Khi mất, ông được tên thụy là Văn Mẫn 文敏. Về thư pháp ông giỏi đủ loại thư thể. Thể chữ Khải của ông (gọi là Triệu thể) thật yểu điệu kiều lệ, đứng ngang hàng với ba đại thư pháp gia đời Ðường là Liễu Công Quyền, Nhan Chân Khanh, Âu Dương Tuân. Từ đời Nguyên đến nay người luyện chữ Khải phải nghiên tập không ngoài bốn kiểu chữ Khải của tứ đại thư pháp gia này. Không chỉ thế, Triệu Mạnh Phủ còn giỏi vẽ ngựa, nhân vật, trúc thạch, sơn thủy. Về vẽ nhân vật, ông chịu ảnh hưởng phong cách đời Tấn, đời Ðường. Ông học vẽ ngựa nơi họa gia Lý Công Lân李公麟, học vẽ sơn thủy nơi các họa gia Ðổng Nguyên 董源 và Lý Thành 李成. Giới thưởng ngoạn xem ông là «Nguyên họa chi quán» 元畫之冠 (người đứng đầu hội họa đời Nguyên).
Ðến thời hiện đại, nổi tiếng vẽ ngựa có Từ Bi Hồng 徐悲鴻 (1895-1953). Ông quê ở Nghi Hưng 宜興, tỉnh Giang Tô 江蘇. Bi Hồng từng du học hội họa ở Pháp. Khi về nước ông vừa dạy hội họa vừa sáng tác. Ông chủ trương dung hợp cách vẽ truyền thống của Trung Quốc (gọi là Quốc họa) với lối vẽ theo định luật phối cảnh và một số kỹ pháp khác của hội họa Tây phương. Nhưng Từ Bi Hồng không phải là người duy nhất theo chủ trương này. Chủ trương dung hợp hội họa Ðông Tây như vậy là một phong trào bấy giờ mà họa phái Lĩnh Nam do Cao Kiếm Phụ sáng lập là một thí dụ tiêu biểu (phái Lĩnh Nam về sau được Lương Thiếu Hàng truyền vào Chợ Lớn, Việt Nam, và hiện nay kế tục là nhóm Nam Tú Nghệ Uyển). Trong tranh của Trung Quốc người ta thấy rõ hai loại bút pháp: Công bút và ý bút. Tranh cổ đại đa số là công bút, vẽ vật thể gì thì cũng phải có đường viền, rồi tỉ mỉ tô màu lên, lá lan lá tre thì cũng thế, nên những đường viền này làm nét vẽ cứng và thiếu sinh động. Ý bút thì ngược lại, nét bút phóng khoáng sinh động vì loại bỏ các đường viền. Một lá lan lá tre chỉ do một nét bút nhưng chính độ đậm nhạt của màu đã tạo ra sáng tối và sự sinh động. (Trước lúc vẽ, búp lông của cây bút được tẩm màu tươi sáng, rồi ngọn bút được chấm vào màu tối; do đó chỉ một nét vẽ mà hiệu quả sáng tối đậm nhạt đều có đủ). Tranh theo chủ trương dung hợp Ðông Tây có xu hướng dùng ý bút. Ý bút thể hiện rất rõ trong các tranh vẽ ngựa của Từ Bi Hồng. Những mảng sáng tối, những chỗ chừa trắng, những nét bút phóng khoáng ở bờm và đuôi ngựa, và bố cục theo luật phối cảnh Tây Phương, tất cả những điều ấy đã giúp tranh có sinh khí và thần thái. Ngoài Từ Bi Hồng, còn có Diệp Túy Bạch cũng là họa gia hiện đại cũng rất nổi tiếng về vẽ ngựa.
Tranh của Từ Bi Hồng (1895-1953)
Phần III:
Quy chuẩn tranh phong thủy cổ Trung Quốc
Chương pháp 章法 là bố cục bức thư pháp. Trước tiên, chúng ta cần quan sát hình thức một bức thư hoạ (từ ngữ chỉ chung thư pháp và tranh thuỷ mặc) Trung Quốc.
Hình thức
Một bức thư họa thường có các dạng như:
1. Hình chữ nhật đứng (kiểu portrait, chiều dài ít nhất gấp đôi chiều rộng), gọi là thụ phúc 豎幅, điều phúc 條幅, trực phúc 直幅, trung đường 中堂, lập phúc 立幅. Hai tấm chữ nhật đứng song song có viết câu đối thì gọi là đối liên 對聯. Đôi khi một bức thư họa ở dạng trực phúc được đặt giữa một đôi đối liên, treo trên tường.
2. Hình chữ nhật ngang (chiều dài ít nhất gấp đôi chiều rộng), gọi là hoành phúc 橫幅, hoành phi 橫披.
3. Hình vuông, gọi là đẩu phương 斗方.
4. Hình mặt quạt, gọi là phiến diện 扇面. Phiến diện có thể nằm lọt trong các hình chữ nhật hoặc vuông. Phiến (quạt) có ý nghĩa biểu tượng. Chữ phiến 扇 âm Bắc Kinh là /shàn/, đồng âm với chữ thiện 善 (tốt lành). Do đó treo bức thư họa hình quạt hoặc treo hẳn một cây quạt to tướng (có hình vẽ tứ quân tử, các loài hoa phú quý, tranh tùng hạc, hay thư pháp) trên vách tường là thể hiện khát vọng được mãi mãi tốt lành, điều thiện luôn đến với gia đình.
Khi bồi tranh hoặc bồi một bức thư pháp, ta phải chừa biên. Nếu là đẩu phương thì bốn biên đều nhau. Nếu là trực phúc hay hoành phúc thì biên theo cạnh dài phải hẹp, biên theo cạnh rộng thật rộng. Kích thước mỗi cạnh (từ một mét trở lên) tuỳ thuộc vào nội dung, số chữ nhiều ít. Nếu là tranh có đề chữ, kích thước này tuỳ ý họa gia ấn định.
Đó là các tấm thư hoạ lộng vào khung kính. Khi không lộng vào khung kính, tấm thư họa được bồi (thuật ngữ gọi là trang biểu 裝裱) bằng lụa và giấy theo một cách thức đặc biệt để có thể cuộn lại quanh một trục (gọi là trục can 軸杆) mang đi hoặc trải ra và treo lên tường. Kiểu thức này gọi là thủ quyển 手卷 (scroll). Những bài kinh ngắn ở dạng thủ quyển được gọi là trục kinh 軸經.
Thủ quyển gồm nhiều bộ phận với các thuật ngữ nhà nghề như sau: (1 & 2) sợi dây treo, từ gút dây toả ra hai râu gọi là (1) ti đái 絲帶, phần dây treo gọi là (2) điếu thằng 吊繩; (3) thượng can上 杆 (trục nhỏ trên, không nhô đầu trục ra); (4) kinh yến 驚燕 (hai dải lụa, phất phơ trước gió, vừa phủi bụi vừa làm sinh động, nên gọi là «chim én run sợ»: kinh yến); (5) thiên đầu 天頭 (đầu hướng lên trời); (6) địa đầu 地頭 (đầu hướng xuống đất); (7) thượng cách thủy 上隔水 và (11) hạ cách thủy 下隔水 là hai mảng trống ngăn cách; (8) thi đường 詩堂 (phần đề thơ); (9) biên 邊; (10) họa tâm 畫心 (phần trung tâm của bức thư hoạ); (12) trục can 軸杆 (trục chính, to hơn thượng trục) nhô ra hai đầu gọi là (13) trục đầu 軸頭. Mầu sắc các phần phải khác biệt và đối ứng nhau, như biên và thiên đầu, địa đầu phải cùng màu; thượng cách thuỷ và hạ cách thuỷ phải cùng màu, khác với màu biên. Màu sắc các phần phải hài hoà, không chỏi nhau.
Chương pháp
Bố trí chữ Hán trên mặt giấy, ta phải theo qui tắc do giới thư pháp gia Trung Quốc ấn định:
* Không thụt vô đầu hàng (indent) như viết chữ Latin, dù là hàng ngang hay hàng dọc. Cách viết theo hàng dọc (hay theo cột) là cách viết truyền thống, gọi là thụ tả 豎寫; cách viết theo hàng ngang (như tiếng Việt, tiếng Anh) gọi là hoành tả 橫寫. Khi viết thư pháp trên phiến diện thì phải dùng thụ tả, và viết chữ vào khoảng giữa các nan quạt.
* Các hàng đều và dài bằng nhau (như canh hàng justify trên máy computer).
* Một chữ lẻ loi không đứng thành một hàng (nhất là ở hàng cuối). Do đó ta phải đếm số chữ toàn bài rồi phân chia số hàng, số chữ trong mỗi hàng cho thích hợp.
* Khoảng trống ở hàng cuối không nên để dài hơn phân nửa chiều dài của hàng, vì tạo cảm giác trống trải cho người xem. Nếu lỡ bị như vậy thì ta nên ghi lạc khoản vào đó để bổ cứu.
* Không được dùng dấu chấm câu (punctuation). Các chữ nối tiếp nhau suốt bài y như trong sách cổ (gọi là bạch văn 白文).
* Thư thể không pha trộn phồn thể và giản thể với nhau. Thư thể ở chính văn và ở lạc khoản phải phân biệt tuyển dụng cho hài hòa:
Chính văn |
Lạc khoản |
1. Khải thư |
1. Khải thư hoặc hành thư |
2. Lệ thư |
2. Khải thư |
3. Hành thư |
3. Hành thư |
4. Cuồng thảo |
4. Cuồng thảo hoặc hành thư |
5. Triện thư |
5. Triện thư hoặc lệ thư |
Lạc khoản
Lạc khoản 落款 cũng gọi là khoản thức 款識, phân thành đơn khoản 單款 và song khoản 雙款. Song khoản phân thành thượng khoản 上款 và hạ khoản 下款. Đơn khoản tức là hạ khoản. Lạc khoản ghi vào hàng cuối của bài.
I. Thượng khoản: Ghi tên cá nhân hay tổ chức nhờ cậy ta thư pháp. Đây là phần trên cùng của hàng chót, là vị trí quan trọng dành ghi những tên tuổi ấy để tỏ lòng tôn trọng. Nếu tự mình thư pháp không theo yêu cầu của ai, thì không ghi gì vào thượng khoản. Thượng khoản gồm: «Tính danh 姓名 + xưng hô 稱呼 + khiêm từ 謙詞» (Trong các thí dụ sau đây, tên người tức tính danh được đánh dấu là xx).
1. Đối với người trưởng thượng, ta ghi: xx đồng chí 同志, xx tiên sinh 先生, xx phương gia 方家, xx nữ sĩ 女士, xx lão sư 老師. Nếu người đó trên 70 tuổi thì ghi xx lão 老; trên 80 tuổi thì ghi xx ông 翁. Nếu người đó là nam, hoạt động trong ngành ngoại giao thì ghi là các hạ 閣下. Còn về phần người làm thư pháp, không nhất thiết xưng hô danh tính, chỉ cần khiêm từ như: chỉ chính 指正, pháp chính 法正, giáo chính 教正, chính tự 正字, chính uyển 正腕, chính chi 正之, thanh thưởng 清賞, nhã thuộc 雅屬, nhã chính 雅正, phủ chính 斧正, chính bút 正筆, chính thư 正書. Đại khái nói khiêm tốn rằng: Xin nhờ ngài xem và sửa giúp cho tôi những chỗ còn vụng. Nếu tặng cho người ấy thì ghi là nhã tồn 雅存, huệ tồn 惠存, hay huệ niệm 惠念. Thí dụ: Nguyễn Hiền tiên sinh thanh thưởng 阮賢先生清賞; Quốc Tuấn phương gia chính bút 國俊方家正筆; Văn Tần các hạ huệ niệm 文秦閣下惠念.
2. Đối với người ngang hàng, ta ghi: xx đồng chí 同志, xx nhân huynh 仁兄, xx nhân đệ 仁弟, xx thư hữu 書友, xx chí hữu 摯友, xx đồng song 同窗, xx đại huynh 大兄, xx hiền đệ 賢弟, xx tiểu đệ 小弟, xx tiểu muội 小妹, xx học hữu 學友, xx bào huynh 胞兄, xx bào đệ 胞弟. Khiêm từ có thể là: tồn niệm 存念, huệ tồn 惠存, lưu niệm 留念, lưu tồn 留存, thanh thưởng 清賞, mệnh thư 命書, nhã thuộc 雅屬. Thí dụ: Minh Hoa thư hữu huệ tồn 明華書友惠存; Vĩnh Lạc hiền đệ nhã thuộc 永樂賢弟雅屬.
3. Đối với người nhỏ tuổi hơn mình hoặc thuộc cấp, ta ghi: xx học sinh 學生, xx hiền khế 賢契, xx hiền điệt 賢侄, xx ái tôn 愛孫, xx ái nữ 愛女, v.v... tùy vai vế. Khiêm từ ghi: minh ký 銘記, chúc thư 囑書. Thí dụ: Hiểu Phàm ái nữ minh ký 曉凡愛女銘記; Văn Hoa hiền khế chúc thư 文華賢契囑書.
Phần kế tiếp của thượng khoản là ghi xuất xứ của chính văn. Có thể đó là thi từ, văn cú, cách ngôn, câu răn lòng. Rồi ghi tên tác giả và nhan đề. Thí dụ: Vương Bột Đằng Vương Các tự cú 王勃滕王閣序句; Đỗ Phủ thi khách chí 杜甫詩客至. Nếu nội dung chính văn quá nổi tiếng, ta không cần ghi xuất xứ. Thí dụ: «Độc thư phá vạn quyển, hạ bút như hữu thần.» 讀書破萬卷下筆如有神.
II. Hạ khoản: Nếu không có phần thượng khoản thì phần hạ khoản phải gọi là đơn khoản. Nội dung của hạ khoản gồm: «Thời gian 時間 + địa điểm 地點 + tính danh 姓名 (biệt hiệu 別號) + khiêm từ 謙詞».
1. Thời gian: Ghi từ đơn vị lớn (năm) xuống dần đến đơn vị nhỏ (ngày).
a. Năm có thể ghi dương lịch hoặc âm lịch. Thí dụ: Nhất cửu cửu bát niên lục nguyệt 一九九八年六月, Mậu dần niên lựu nguyệt 戊寅榴月 hoặc Mậu dần chi hạ 戊寅之夏.
b. Tháng ghi theo âm lịch có nhiều tên như:
Giêng
|
Chính nguyệt 正月, mạnh xuân 孟春, sơ xuân 初春, khai tuế 開歲, phương tuế 芳歲, đoan nguyệt 端月, chinh nguyệt 征月.
|
Hai
|
Trọng xuân 仲春, hạnh nguyệt 杏月, lệ nguyệt 麗月, hoa triêu 花朝, trung xuân 中春, hoa nguyệt 花月, lịnh nguyệt 令月.
|
Ba
|
Quý xuân 季春, mộ xuân 暮春, đào nguyệt 桃月, tàm nguyệt 蠶月, đào lãng 桃浪, mạt xuân 末春, vãn xuân 晚春.
|
Tư
|
Mạnh hạ 孟夏, hoè nguyệt 槐月, mạch nguyệt 麥月, mạch thu 麥﹑秋, thanh hoà nguyệt 清和約, mai nguyệt 梅月, chu minh 朱明
|
Năm
|
Trọng hạ 仲夏, lựu nguyệt 榴月, bồ nguyệt 蒲月, trung hạ 中夏, thiên trung 天中.
|
Sáu
|
Quý hạ 季夏, mộ hạ 暮夏, hà nguyệt 荷月, thử nguyệt 署月, nhục thử 溽署, ưu nguyệt 優月.
|
Bảy
|
Mạnh thu 孟秋, qua nguyệt 瓜月, lương nguyệt 涼月, lan nguyệt 蘭月, lan thu 蘭秋, thủ thu 首秋, xảo nguyệt 巧月.
|
Tám
|
Trọng thu 仲秋, trung thu 中秋, quế nguyệt 桂月, sảng nguyệt 爽月, quế thu 桂秋.
|
Chín
|
Quý thu 季秋, mộ thu 暮秋, cúc nguyệt 菊月, vịnh nguyệt 詠月, cúc thu 菊秋, huyền nguyệt 玄月, thanh nữ nguyệt 青女月.
|
Mười
|
Mạnh đông 孟冬, sơ đông 初冬, lương nguyệt 良月, khai đông 開冬, cát nguyệt 吉月, thượng đông 上冬.
|
M. Một
|
Trọng đông 仲冬, sướng nguyệt 暢月, trung đông 中冬, tuyết nguyệt 雪月, hàn nguyệt 寒月, long tiềm nguyệt 龍潛月.
|
M. Hai
|
Quý đông 季冬, tàn đông 殘冬, lạp nguyệt 腊月, băng nguyệt 冰月, mộ đông 暮冬.
|
c. Bốn mùa:
-
Xuân chia làm: sơ xuân 初春, tảo xuân 早春, dương xuân 陽春, phương xuân 芳春, mộ xuân 暮春.
-
Hạ chia làm: sơ hạ 初夏, trung hạ 中夏, hạ mộ 夏暮, cửu hạ 九夏, thịnh hạ 盛夏.
-
Thu chia làm: sơ thu 初秋, kim thu 金秋, tam thu 三秋, mộ thu 暮秋, trung thu 中秋.
-
Đông chia làm: sơ đông 初冬, hàn đông 寒冬, cửu đông 九冬, mộ đông 暮冬, trung đông 中冬.
d. Mỗi tháng thượng tuần 上旬 (mồng 1 đến 10) gọi là thượng hoán 上浣; trung tuần 中旬 (11 đến 20) gọi là trung hoán 中浣; hạ tuần 下旬 (21 đến 30) gọi là hạ hoán 下浣. Thí dụ: Mậu dần niên quế nguyệt thượng hoán 戊寅年桂月上浣 (thượng tuần tháng 8 âm lịch năm Mậu dần).
e. Một số ngày đặc biệt:
-
Mồng một tháng giêng: Nguyên nhật 元日, đoan nhật 端日.
-
Mồng bảy tháng giêng: Nhân nhật 人日.
-
Rằm tháng giêng: Thượng nguyên 上元, nguyên tiêu nhật 元霄日.
-
Rằm tháng bảy: Trung nguyên 中元.
-
Rằm tháng mười: Hạ nguyên 下元.
-
Mồng ba tháng ba: Trùng tam 重三.
-
Mồng tám tháng tư: Dục phí 浴沸.
-
Mồng năm tháng năm: Đoan ngọ 端午, trùng dương 重陽, đoan dương 端陽.
-
Mồng bảy tháng bảy: Thất tịch 七夕.
-
Rằm tháng tám: Trung thu 中秋.
-
Mồng chín tháng chín: Trùng cửu 重九, trùng dương 重陽.
-
Mồng tám tháng chạp: Lạp bát 腊八.
-
30 tháng chạp: Trừ tịch 除夕.
-
Mồng một: Sóc nhật 朔日.
-
Rằm: Vọng nhật 望日.
-
30 mỗi tháng: Hối nhật 晦日.
2. Địa điểm: Không ghi lời thô. Thí dụ, ghi «thư ư Đề Ngạn Sinh Ký thực nhục điếm» 書於提岸生記食肉店 (viết tại quán nhậu Sinh Ký tại Chợ Lớn) là không chấp nhận được. Ghi «thư ư Đề Ngạn Mỹ Hồng lâu» 書於提岸美紅樓 (viết tại quán Mỹ Hồng Chợ Lớn) là chấp nhận được. Hoặc ghi thời gian và địa điểm đơn giản như: Mậu dần chi thu ư Bình Thạnh thư 戊寅之秋於平盛書 (viết tại Bình Thạnh mùa thu năm Mậu dần).
3. Tác giả: Ta ghi tên hoặc họ hoặc cả hai, rồi thêm chữ thư 書. Thí dụ: Lê Anh Minh 黎英明, hoặc Anh Minh thư 英明書, hoặc Lê Anh Minh thư 黎英明書.
4. Khiêm từ: Nếu ta thư pháp để đưa cho bậc trưởng thượng hoặc một chuyên gia về thư pháp thì sau tên của ta, ta ghi thêm khiêm từ: thư phụng 書奉, phụng thư 奉書, kính thư 敬書, cung lục 恭錄, kính lục 敬錄.
Thí dụ một hạ khoản đầy đủ: Mậu dần niên hạnh nguyệt hạ hoán ư Cổ Phong Đường Lê Anh Minh kính thư 戊寅年杏月下浣於古風堂黎英明敬書.
Tóm tắt: Dưới đây là đầy đủ các phần của lạc khoản, viết theo cột từ trên xuống:
1 |
(1, 2, 3) THƯỢNG KHOẢN = (1) Tính danh, (2) Xưng hô, (3) Khiêm từ.
(4) XUẤT XỨ = ghi xuất xứ phần chính văn (nội dung chính của bức thư pháp), tức là ghi rõ ở đây trích thơ văn hay câu cú của ai. Nếu chính văn là do người viết thư pháp tự sáng tác thì phần này không cần.
(5, 6, 7, 8) HẠ KHOẢN = (5) Thời gian, (6) Địa điểm, (7) Tính danh hay biệt hiệu của người viết thư pháp, (8) Khiêm từ.
(9) ẤN CHƯƠNG = Một hoặc hai ấn chương của người viết thư pháp.
|
2 |
3 |
4 |
5 |
6 |
7 |
8 |
9 |
Ấn chương
Ấn chương đã được giải thích thành một bài riêng. Ở đây ta nhận xét cách đặt ấn chương trên một bức thư họa:
Trong hình bên cạnh, ấn thứ nhất (dẫn thủ chương) ở vị trí 1. Ấn thứ hai (yêu chương) ở vị trí 2 (ngang eo bên phải của bức thư họa; yêu = thắt lưng). Khi nào bức thư hoạ quá dài thì mới đóng thêm yêu chương cho đỡ trống trải. Sát bên trái là lạc khoản (phần ghi dấu - - - ), kết thúc bằng ấn thứ ba. Ở vị trí 3, tác giả có thể đóng hai ấn.
Đó là ba ấn chương của tác giả (thư pháp gia hay hoạ gia). Đối với bức thư họa kích thước hơi nhỏ, một ấn chương ở vị trí 3 cũng đủ. Những tác phẩm thư hoạ cổ xưa, qua tay nhiều chủ nhân, mỗi người chủ có quyền đóng thêm một vài ấn chương riêng của mình vào những chỗ trống trải còn lại. Bài Ấn chương đã nói các loại ấn chương và công dụng của chúng.
Trên đây là những điều rất cơ bản về chương pháp. Như đã nói trong bài Ấn chương, một tác phẩm thư hoạ từ hình thức đến nội dung và các chất liệu cấu tạo phải là một chỉnh thể hài hoà. Một bức thư họa do đó được gọi là «kim thạch thư họa cộng nhất thể» 金石 書畫共一體 (ấn triện bằng đá hay vàng, thư pháp, hội họa hợp nhất thành một thể). Tuy nhiên, ấn chương kim loại, nét sắc lẽm trên bức thư hoạ chưa phải là đẹp. Ấn bằng đá hay ngọc, lâu ngày bị sứt mẻ do va chạm hay rơi rớt. Khi đóng lên bức thư hoạ, nó chẳng những tạo nét cổ kính riêng, lại còn gợi ra sự bất toàn trong một chỉnh thể, như Lão Tử nói: «Đại thành nhược khuyết.» (viên mãn mà như còn thiếu). Đó mới chính là nét đẹp thâm trầm đầy triết lý Đông phương.