Giải mã các hiện tượng dị thường - Kỳ 13 - Kỳ 14

Kỳ 13: Ngoại cảm của một trường hợp điển hình

Như đã trình bày ở hai kỳ trước, việc tiếp xúc với “vong” hay nói chuyện với “linh hồn” liệt sĩ hoàn toàn chỉ là cuộc tự nói chuyện do giới đồng cốt bịa đặt, như một thủ thuật tạo niềm tin, qua đó họ có thể thu lượm được một số thông tin có ích từ thân nhân người chết. Báo chí có lần nói tới khả năng dùng cảm xạ để phát hiện hài cốt dưới lòng đất?


Cảm xạ là gì?


Thuật ngữ cảm xạ (dowsing) được dùng lần đầu tiên vào năm 1540 trong tác phẩm về khai mỏ mang tên De re Metallica của Georgius Agricola, được ấn hành tại Basel, Thụy Sĩ, như một kỹ thuật tìm khoáng sản hay đồ vật bị chôn giấu.


Trong khi đó cuốn Phục hồi Pluton của Nam tước phu nhân Beausoleil năm 1640 khuyến khích cách dùng gậy để “cảm xạ” các nguồn nước ngầm; kỹ thuật này phổ biến khắp châu Âu. Ngược với cái tên nghe lạ tai, kỹ thuật cảm xạ thực ra rất đơn giản. Muốn tìm nguồn nước, đồ vật chôn giấu... nhà cảm xạ cầm một đoạn cây nhỏ hình chữ Y hay một con lắc trên hai tay và đi lại trên vùng đất nghi ngờ. Bình thường cây gậy nằm ngang ở vị trí cân bằng, còn con lắc dao động bình thường theo chiều ngang. Khi cây gậy mất thăng bằng hay con lắc dao động bất thường, nhà cảm xạ dừng lại và đánh dấu trên mặt đất. Theo họ, dưới vị trí đánh dấu có nguồn nước ngầm hay hài cốt người chết, và chúng tác dụng lên cây gậy hay con lắc qua một tương tác bí ẩn nào đó.


Cần nói thêm là giới khoa học chính thống nghi ngờ khả năng thực tế của cảm xạ, vì họ chưa tìm được lời giải thích hợp lý. Một trong nhiều giả thuyết được nêu ra là, đồ vật chôn dưới đất làm biến động từ trường trái đất, và một số người có khả năng đo được sự thay đổi đó.


Cảm xạ trong tìm mộ?


Như đã trình bày, khi lên đồng, cô Năm nhập vai một “đức ông” có khả năng vẽ sơ đồ nơi chôn cất mộ. Bằng cách tung đồng xu, “ông” sẽ xác định hài cốt đang nằm tại khu vực được đánh số nào đó, chẳng hạn khu vực số 2. Nhưng khu vực số 2 là khu vực nào? Khi người đi tìm mộ hỏi như vậy, “ông” trả lời ngay: “Phải đi hỏi chứ. Đi hỏi đồng đội, hỏi chính quyền, hỏi huyện đội, tỉnh đội xem hài cốt nằm ở đâu. Và khi đã hỏi được thì về báo ngay để cô Năm đến tìm”.


Tóm lại, ở trường hợp cô Năm, quá trình tìm mộ chỉ thực sự bắt đầu khi người nhà đến báo cho cô vị trí nơi chôn cất, chẳng hạn tại một ruộng ngô hay nương sắn nào đó. Toàn bộ chuỗi lên đồng, vẽ sơ đồ, nói chuyện với người chết, xác định vị trí hài cốt trên sơ đồ... chỉ là động tác giả. Quá trình tìm mộ thật chỉ bắt đầu khi cô Năm theo chân người nhà đến tận nơi từng chôn cất người đã khuất. Vì khu vực có thể rộng, địa hình biến đổi theo tháng năm, nên người nhà và đồng đội có thể đã đào nhiều nơi nhưng chưa thấy hài cốt. Cô Năm nói có thể giúp họ tìm lời giải, bằng cách đi lại nhiều lần trên khu đất đó.


Một câu hỏi mang tính quyết định cần trả lời là, khả năng cảm xạ của cô Năm có đáng tin cậy hay không? Người viết cho rằng thật khó trả lời khi chưa được tận mắt theo dõi quá trình cảm xạ trên thực địa. Liệu lời kể khi nào thấy bỏng rát bàn chân thì dừng lại của cô có đáng tin hay không, khi trước đó cô đã dùng hàng loạt thủ thuật “lừa gạt vô thức” (thuật ngữ chuyên môn chỉ hành động lừa gạt không chủ ý ở trạng thái vô thức) để gặt hái niềm tin của mọi người? Hay lúc đó cô không thấy bàn chân bỏng rát, mà chỉ thấy một số dấu hiệu gợi ý rằng ở dưới mặt đất có thể có hài cốt?


Chỉ cô Năm mới trả lời được câu hỏi này, mà cô thì nhất định không chịu tiết lộ. Đây chính là khó khăn cơ bản của việc nghiên cứu khả năng tìm mộ nói riêng, các khả năng dị thường khác nói chung.


Kinh nghiệm khảo sát khả năng cảm xạ tìm nước ngầm trên thế giới cho thấy, khi được thử nghiệm tại hiện trường (như trường hợp cô Năm tìm mộ), các nhà cảm xạ đạt tỷ lệ thành công rất cao, nhưng khi các ám hiệu địa chất được loại trừ, tỷ lệ đó giảm xuống đáng kể. Cần nói thêm là tỷ lệ thành công của cảm xạ tuy cao nhưng không hơn khả năng của một nhà địa chất có kinh nghiệm. Điều đó cho thấy dường như giới cảm xạ chỉ dùng các dấu hiệu địa chất để tìm nước ngầm (như vị trí các mô đất, khe lạch; cây cối xanh tốt hơn...).


Ở trường hợp cô Năm, không loại trừ các dấu hiệu mang tính chỉ dẫn như vậy. Chẳng hạn trên vùng đất khô cằn mà lại thấy bụi cây tươi tốt hơn thì nhiều khả năng bên dưới có điều khác thường, chẳng hạn một hài cốt. Đào lên thấy hài cốt thì tốt, nếu không thì một chút đất đen mủn cũng được xem là dấu hiệu của hài cốt! Vai trò quyết định ở đây thuộc về gia đình, bạn bè và chính quyền. Vì thế lúc tỉnh lại sau khi lên đồng, cô Năm nói với nữ phóng viên đi cùng tôi (đại ý): Công của cô Năm chỉ 1% thôi, còn 99% thuộc về gia đình, đồng đội và chính quyền. Về điểm này thì tôi hoàn toàn đồng ý với cô: 1% đó thuộc về công khuyến khích mọi người cố gắng; càng cố gắng thì khả năng tìm thấy hài cốt càng cao.


Và như thế con số hàng ngàn bộ hài cốt đã được cô Năm tìm thấy chỉ là một con số chưa được kiểm chứng và không đáng tin cậy mà thôi. Đó cũng là tình trạng chung bất cứ một nhà ngoại cảm tìm mộ nào khác.


Kỳ 14: Trị liệu tâm linh

Trị liệu tâm linh là bất cứ phương pháp điều trị nào không dùng các tác nhân vật chất. Nó có nhiều tên gọi khác nhau: trị liệu tâm linh, trị liệu tinh thần, trị liệu niềm tin, trị liệu dị thường, trị liệu (đặt) bàn tay... Khí công, nhân điện, yoga, khí công Bùi Long Thành, dưỡng sinh tâm thể, chữa bệnh qua truyền hình của Kaspirovski hay liệu pháp Dzhuna (Liên Xô) đều có thể xếp vào loại hình này.

Đầu tiên cần nhấn mạnh vai trò của tinh thần người bệnh. Ai không tin thì hầu như không giảm bệnh khi dùng các trị liệu tâm linh. Vì thế đặt tên trị liệu niềm tin là rất chính xác. Và đó là lí do người ít hiểu biết dễ giảm hay khỏi bệnh hơn một nhà khoa học nhiều kiến thức.

Căn nguyên giảm bệnh

Hiệu ứng mẹ Tereza: Nhà tâm lý McClelland tại Harvard phát hiện, sau khi xem phim về vị nữ tu đoạt giải Nobel hòa bình, thấy glubolin miễn dịch trong nước bọt ở hầu hết sinh viên đều tăng, kể cả người không thích bộ phim và nhân vật. Charnetski, ĐH Wilkis (Mỹ) cũng thấy sau 30 phút nghe nhạc Mozart, glubolin miễn dịch tăng 14%.
Điều đó chứng tỏ, câu chuyện về lòng tốt, bản nhạc hay, bức tranh đẹp, sự xúc động, tự hào... đều có thể tăng sức đề kháng của cơ thể, tức làm cho con người khỏe mạnh hơn cả về thể chất và tâm hồn.

Tác dụng placebo: Trong tiếng Latin, placebo là “tôi sẽ hài lòng”. Đó là giả dược, có tác dụng trên 40% bệnh nhân do tác động tâm lý lên niềm tin người bệnh. Nhiều yếu tố làm tăng tác dụng của placebo, như môi trường chữa bệnh thân thiện, sự ân cần của thầy thuốc, sự lạc quan của người bệnh...

Vai trò vô thức: Nhiều trị liệu tâm linh chỉ đơn giản là kỹ thuật dùng vô thức tác động lên sự tự chữa bệnh của cơ thể. Đó là lý do tại sao một trị liệu lại có thể tác động ở mức độ nào đó lên nhiều mặt bệnh có cơ chế bệnh sinh ra trái ngược nhau. Nếu không hiểu điều đó, rất dễ nghĩ tới một tác động vạn năng, như “trường sinh học” hay “năng lượng vũ trụ”.

Các trường vật lý từ cơ thể: Như một bộ máy điện hóa phức tạp, cơ thể luôn phát ra nhiều điện từ trường ở nhiều dải tần. Nghiên cứu tại Trung Quốc, Nhật, Mỹ hay Hồng Kông thấy rằng, khi phát công, khí công phát các bức xạ vùng hồng ngoại gần và vùng tần số cực thấp. Các tín hiệu này có thể tác động cơ thể người bệnh, gây tác dụng chữa bệnh.

Về một số trị liệu
Thôi miên, thôi miên tập thể, ám thị và tự kỉ ám thị: Chúng đều dùng vô thức để chữa bệnh. Phương pháp Kaspirovski thuộc loại này, khi ông chữa bệnh trĩ bằng cách khuyên người bệnh áp chỗ bị bệnh vào màn hình! Sau khi phát triển rầm rộ đầu những năm 1990, liệu pháp này đã bị cấm, vì như bất cứ một phương pháp nào khác, nó có chỉ định và phản chỉ định cụ thể, nên không thể dùng đại trà cho tất cả các loại bệnh như thế được.

Trị liệu (đặt) bàn tay: Khi áp bàn tay lên vùng bệnh lí, nhà trị liệu phát trường điện từ (phát công) để chữa bệnh. Khí công hay nhân điện là như vậy. Và kết quả điều trị là tổng hợp của điện từ trường sinh học và tâm lý liệu pháp.

Khí công Bùi Long Thành: Từng lên truyền hình những năm 1990, đây là phương pháp điển hình cho sự dùng vô thức một cách cực này dễ bị tâm thần (tẩu hỏa nhập ma), vì vô thức là trạng thái cách ly cảm giác, mà nếu lạm dụng, hoạt động tinh thần sẽ bị rối loạn. Đó là lý do “tuyệt tích giang hồ” của trường phái này.

Một số phương pháp khác: Những môn như dưỡng sinh tâm thể của bà Nguyễn Thị Hương (báo chí nửa cuối những năm 1990 gọi là má Hai Bình Định) và nhiều người khác chủ yếu dựa trên hiệu ứng mẹ Teresa. Khi người bệnh tĩnh tâm, được khuyên tu tâm dưỡng tính, chăm làm việc thiện... hệ miễn dịch của họ được tăng cường, dẫn tới sự tự chữa bệnh.

Có thể còn một số vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, nhưng nhìn chung các trị liệu tâm linh đều chủ yếu dựa trên khả năng tự chữa bệnh của cơ thể. Nói cách khác, khi đó người bệnh tự chữa bệnh hơn là được chữa bệnh, với kĩ thuật điều trị đóng vai trò chất xúc tác. Vì thế theo Howard Gordon trong cuốn Con người kì diệu, chính bệnh nhân, chứ không phải nhà trị liệu, đã thực hiện điều kì diệu; và trong trường hợp tốt nhất thì nhà trị liệu cũng chỉ đóng vai trò tạo thuận lợi cho những gì sẵn có trong cơ thể người bệnh mà thôi.

Cuối cùng cần phải nhấn mạnh rằng, đa số các trị liệu tâm linh dùng các kĩ thuật hướng tới vô thức để chữa bệnh. Đó là con dao hai lưỡi nếu không kiểm soát được mặt trái của vấn đề, như môn khí công Bùi Long Thành đã chứng tỏ. Ngoài ra, việc lạm dụng các trị liệu này do thiếu hiểu biết hay do mê tín có thể khiến bệnh nhân mất cơ hội nhanh chóng tiếp cận các cơ sở y tế có thẩm quyền để được chẩn trị kịp thời và đúng đắn. Đó là một nguy cơ cần được cảnh báo rộng rãi.