Tìm hiểu Ấn và Chú của Mật Tông - Phần 2

Tìm hiểu Ấn và Chú của Mật Tông - Phần 2

VAI TRÒ CỦA VIỆC “KẾT ẤN
TRONG KHÍ CÔNG & TĨNH TỌA TỰ CHỮA BỆNH

alt

Sức Sống Mới (Theo sahajayoga-vietnam.org)

Hoa_Van_1.gif, 14113 bytes

Ấn cho cái Ta nội tại:

Đặt đầu các ngón tay trỏ, giữa ngón nhẫn và ngón út và các gò của bàn tay bạn, đặt ngón cái bên cạnh nhau, chúng dẫn tới các đầu ngón tay của các ngón út mà chúng chạm vào. Một khoảng rỗng qua đó ánh sáng lọt vô hợp bởi đầu các ngón út làm tăng cường năng lực của trái tim qua sự sống thiêng liêng. Giữ vị thế tay này ở trước trán nhìn qua lỗ hỗng càng lâu càng tốt, hạ tay xuống ngang cầm một lát, giữ hơi thở sau đó thở ra nhè nhẹ.

Bắt Ấn ( Mudra Yoga )

Ấn theo tiếng Phạn có nghĩa là “ Khép kín năng lượng”. Khi chúng ta khép kín năng lượng thì năng lượng được tập trung. Một khi năng lượng được tập trung thì có sức mạnh vô tận. Chúng ta có thể học được cách đạt tới năng lượng vô hạn của chúng ta bằng cách áp dụng việc bắt ấn.

Ấn biến đổi theo hiệu quả của mỗi ấn khác nhau trên cơ thể, tinh thần và tâm thức của con người. Ấn làm quân bình nguồn năng lượng cũng như kênh dẫn tới các trung tâm năng lượng đặc thù.

Ấn sử dụng bàn tay, mắt và toàn thân để kích động năng lượng. Lẽ dĩ nhiên là tất cả các ấn đều mang lại cho tinh thần một sự quy tụ tối hậu. Việc bắt ấn được thực hành trong suốt thời kỳ lịch sử loài người. Trước khi có ngôn ngữ cảm xúc được tạo các cử chỉ của các ngón tay để diễn đạt, để thông tin. Rồi tiến trình tiếp diễn các cử chỉ bàn tay hòa theo các từ, các câu và ngôn ngữ…

Bàn tay từng là biểu tượng của nguyện cầu và của năng lực cao hơn. Vào khoảng 1500 năm trước Thiên Chúa, thần RA đầy năng lực của Ai Cập được mô tả như chùm tia nắng tỏa ra ở mỗi bàn tay xòe ra. Ấn là phần rất quan trọng trong các lễ nghi tôn giáo, các nghi thức Ấn giáo và Phật giáo.

Ấn nguyện cầu với các bàn tay chắp lại tại con tim biểu tượng nguyện cầu và sùng kính đối với người Công giáo. Các cử động bàn tay được thực hành bởi các nhóm triết học, tôn giáo và tâm linh khác nhau trên khắp thế giới.

Thủ ấn còn được kết hợp vào các thực hành (thế tập) yoga khác nhau như là các chuỗi yoga tam điểm và pranayama, tập trung tư tưởng, cầu nguyện, thờ phượng, thiền định, khiêu vũ và các diễn đạt khác.

Bàn tay còn biểu hiện bản ngã của chúng ta nữa. Bởi lý do đó, có người từng nói là bắt ấn là một cách để liên lạc thông tin với Devi năng lực vũ trụ.

Bắt ấn có thể làm với một hay hai tay cùng một lúc. Tay phải tượng trưng cho ngoại ngã, tay trái cho nội ngã. Mỗi ngón tay lại có ngôn ngữ riêng. Loại ấn còn được xác định bởi các trạng thái khác nhau như nơi mà các ngón tay chạm vào, định chỗ và nơi chốn mà ấn được bắt.

Khi mà ấn bàn tay xòe lướt từ nơi này đến nơi khác thì cũng ví như bàn tay đang khiêu vũ. Các bàn tay xòe, khép vào những ấn khác nhau cũng giống những tư thế chuyển từ nơi này đến nơi khác.

Bàn tay được dùng để diễn tả, làm việc và chia sẻ với người khác. Chúng vô giá và mạnh mẽ. Bàn tay chúng ta là vật bán dẫn cho năng lượng vì chúng điều khiển năng lượng và làm tập trung tinh thần. Vì thế, sự áp dụng đúng đắn việc bắt ấn bằng tay có thể tăng cường vai trò bàn tay trong cuộc sống. Các cuộc nghiên cứu đã chứng minh rằng khi người ta làm các động tác bằng tay và cánh tay thì cũng giúp cho tiến trình suy tư.

Với một đại sư Yoga, bắt ấn khi được làm đồng thời có thể truyền đạt được năng lực. Có rất nhiều bức họa vẽ các vị Thánh với bàn tay ban phước lành hoặc của thiền sư, một người cầu nguyện và thiền định.

Thủ ấn Anjali – Ấn cầu nguyện

Khi chắp tay ở trung tâm trái tim, ấn Anjali tạo ra một cảm xúc tôn thờ, quân bình năng lực trí tuệ và thể xác, làm dịu tinh thần.

Thủ ấn Lakshmi Devi

Để tay vào ấn Anjali (tư thế cầu nguyện). Rẽ ngón thứ tư. Đặt các ngón thứ nhì đằng sau ngón thứ tư. Hướng đầu ngón thứ nhì về đầu các ngón cái. Chạm chúng nếu có thể. Đan các ngón thứ năm. Các ngón thứ nhất hướng ra ngoài, bên cạnh ngón kia.

Nhãn ấn

Thường được dùng như một cách thực hành Pratyahara, sự thâu nhận tâm trí từ các đối tượng giác quan.

Thông tin thu nhận bằng mắt thì nhiều hơn bất kỳ các giác quan khác. Người ta nói rằng gần 60% thông tin được thu nhận trong lúc chúng ta lắng nghe ai đó, là những gì chúng ta nhìn thấy. Xuyên qua sự quan sát, mắt thâu nhận phần lớn kiến thức từ giác quan. Vì thế, sự thâu nhận của tâm trí thông qua các đối tượng giác quan, mắt cần được nhìn thấy như cái cách mà sự vật diễn đạt. Có nhiều nhãn ấn cho mắt nhắm và khi mắt mở.

Hai mắt nhìn thấy hai mặt. Tại thế giới ngoại quan, từng cặp hiện diện đối kháng. Sự chiến đấu giữa thiện và ác, ánh sáng và bóng tối. Khi nhãn quan nội tâm khai mở, có một kinh nghiệm quyền lực vượt lên trên các cặp đối kháng nhau. Thượng trí bừng sáng và soi đường.

Để khai mở nội nhãn, ấn nhãn có thể giúp đỡ to lớn. Ấn nhãn hướng kênh năng lượng lên đến nội nhãn. Năng lượng tập trung về một điểm cụ thể nhờ sự kết hợp quyền lực tinh thần và vật chất của ấn nhãn.

Trong thiền định, một trãi nghiệm sự chuyển động tự nhiên của mắt có thể thành ấn. Hai mắt nhắm lại và nhìn hướng lên nhẹ, tự nhiên hai tròng bên trong, như dòng năng lượng hướng lên. Với cách này, ấn có thể được truyền dẫn như ngoại ấn (outside-in) hay ấn thể hiện (applying mudra) và nội ấn (inside-out) hay ấn tự sinh (spontaneous mudra).

Thân ấn

Hành giả yoga từ lâu đã khám phá ra rằng vị thế thân xác tối hậu để năng lực tuôn chảy và tinh thần được tập trung là để cho cơ thể buông xả trong tư thế ngồi tam giác. Ở tư thế ngồi, hai bàn chân là gốc của tam giác trong khi đầu là ngọn tam giác. Bởi vậy, thế ngồi hoa sen và các thế ngồi khác được chọn để ngồi thiền. Tùy theo công việc cơ thể được chọn thế đặc thù sẽ có công dụng tốt nhất. Tất cả các môn thể thao đều có tư thế đặc thù, người ta thay đổi thế tùy nhu cầu. Khi ngồi thẳng lưng thì ta sẽ cảm thấy có nhiều năng lực.

Bằng cách giữ sự buông xả trong hành động thì cơ thể trở nên ấn – yoga tam điểm di chuyển cơ thể vào ấn duyên dáng. Cơ thể cảm thấy quy tụ đầy năng lực để lấp đầy định mệnh con người.

VAI TRÒ CỦA VIỆC “KẾT ẤN” TRONG KHÍ CÔNG & TĨNH TỌA TỰ CHỮA BỆNH

Ấn thường được thể hiện trong các tranh, tượng của nhiều nền văn hóa khác nhau. Đặc biệt khi nói đến khí công và tĩnh tọa, nhiều người thường liên tưởng ngay đến các vị đạo sư hoặc những nhà khí công ngồi thiền, hai tay bắt ấn! Tại sao phải bắt ấn? Phải chăng ấn chỉ liên quan đến những điều huyền bí, mê tín, không giải thích được? Bài viết sau đây sẽ đề cập đến ý nghĩa và tác động khí hóa của ấn trong việc luyện tập khí công và tĩnh tọa tự chữa bệnh.

MỖI NGÓN TAY LÀ MỘT BIỂU TƯỢNG THU NHỎ CỦA CƠ THỂ

Án ma liệu pháp có lẽ là một hình thức trị bệnh tồn tại sớm nhất trong xã hội loài người. Liệu pháp này xuất phát từ những kinh nghiệm ngẫu nhiên day, ấn, bấm hoặc xoa bóp vào những vùng hoặc những điểm nhất định ở ngoài da để đạt được hiệu quả giảm đau trên những bộ phận ở xa hoặc sâu hơn trong cơ thể. Dần dần những nghiên cứu về hiệu ứng toàn tức sinh vật và phản xạ thần kinh đã làm sáng tỏ và phát triển thêm kinh nghiệm của người xưa.

Những kết quả nghiên cứu này cũng phù hợp với quan điểm truyền thống về Thiên nhân tương ứng. Con người và vũ trụ là đồng thể. Con người là một vũ trụ thu nhỏ. Xa hơn, mỗi một bộ phận riêng biệt của cơ thể cũng lại là một tiểu vũ trụ có những điểm tương đồng, tương ứng với cái toàn thể của cơ thể.

Nổi bật nhất trong số những vùng phản xạ, những vũ trụ thu nhỏ là hai lòng bàn tay và cả những ngón tay, với các đầu ngón tay là cơ quan xúc giác chủ yếu, nơi tập hợp những đầu mút thần kinh vô cùng tinh tế và cũng là nơi khởi đầu (Tĩnh huyệt) của những đường kinh Dương.

Có thể nói mỗi ngón tay đều có đầy đủ đặc tính của cả cơ thể. Đầu ngón tay ứng với phần đỉnh đầu. Phần dưới của các ngón, nơi tiếp giáp giữa ngón tay và bàn tay ứng với phần hạ bàn; Ba đốt ngón tay tính từ đầu ngón trở xuống lần lượt tương ứng với 3 phần thượng tiêu, trung tiêu và hạ tiêu của cơ thể. Do đó về mặt khí hóa, kết ấn hay bắt ấn là tác động vào đầu ngón tay, hoặc các gốc ngón tay cũng đồng nghĩa với kích hoạt những huyệt ở vùng đỉnh đầu hoặc vùng xương cùng, hai khu vực thu, xả và giao hòa giữa nội khí của cơ thể với thiên khí hoặc địa khí của vũ trụ bên ngoài

MỘT SỐ HIỆU ỨNG KHÍ HÓA CỦA ẤN

Kích hoạt thăng giáng theo quy luật tự nhiên. Theo học thuyết kinh lạc của y học cổ truyền, các đường kinh Dương đi từ trên giáng xuống và các đường kinh Âm đi từ dưới thăng lên. Do đó khi cơ thể ở trong tình trạng thư giãn thích hợp, nếu tác động vào các đầu đường kinh thì kinh khí của các đường kinh sẽ lên hoặc xuống theo đúng quy luật của nó.

Như vậy, khi ta ấn vào các đầu ngón tay là đã tác động trực tiếp vào Tĩnh huyệt của một đường kinh Dương và cả huyệt Bách hội ở đỉnh đầu – nơi tập hợp của các đường kinh Dương – nên có tác động giáng khí. Ngược lại, nếu ta tác động vào gốc các ngón tay sẽ kích hoạt hai huyệt Trường cường và Hội âm ở vùng xương cùng và các đường kinh Âm nên có tác dụng thăng khí. Y học cổ truyền cho rằng “thống tất bất thông, thông tất bất thống”.

Hơn nữa, nếu các kinh mạch thông suốt thì những tạng phủ tương ứng cũng hoạt động điều hòa và cơ thể khỏe mạnh. Do đó, tác động thăng giáng luân lưu ở các đường kinh có ý nghĩa rất quan trọng trong việc dưỡng sinh và chữa bệnh.

Thiên Bệnh lý của Nội kinh có ghi “trăm bệnh sinh ra đều do nơi khí”. Đặc biệt là ở thời đại ngày nay, tính cạnh tranh cao và nhịp sống quá nhanh khiến con người thường xuyên phải lo lắng, căng thẳng. Chính những cảm xúc âm tính dai dẳng đã dẫn đến khí uất, khí nghịch – là đầu mối của nhiều thứ bệnh.

Trong điều kiện này, nhất là ở giai đoạn đầu khi bệnh còn chưa gây ra những tổn thương thực thể thì chỉ cần điều hòa khí hóa, cân bằng âm dương, làm cho dương giáng, âm thăng, giải tỏa tình trạng khí uất, khí nghịch là đủ để phục hồi sức khỏe. Trong những trường hợp này, thư giãn và bắt ấn có lẽ là phương pháp nhanh, hiệu quả và thuận tự nhiên nhất trong việc tái lập tình trạng khí hóa bình thường

Khai mở một huyệt vị, khai thông một đường kinh, tăng cường nội khí. Y học truyền thống và khí công cổ đại đều cho rằng con người và vũ trụ thăng giáng, giao hòa thông qua hô hấp “hô tiếp thiên căn, hấp thu địa khí”. Sự giao hòa này diễn ra chủ yếu ở hai khu vực đỉnh đầu và xương cùng. Khi ta tác động vào đầu ngón tay và gốc ngón tay cũng là gián tiếp kích hoạt sự thu, xả ở những huyệt tương ứng như Bách hội ở đỉnh đầu, Hội âm và Trường cường ở vùng xương cùng.

Sự kích hoạt của ấn có tác dụng lợi dụng thiên khí và địa khí làm mạnh dòng chảy của kinh mạch, qua đó có thể khai thông một đường kinh, một huyệt vị hoặc tăng cường nội khí trong cơ thể. Ngoài ra khi Nhâm Đốc đã được thông, động tác bắt ấn mỗi lần tập sẽ rút ngắn thời gian sinh khí và tăng cường chân khí để sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau.

NHỮNG ĐỐI ỨNG KHÁC NHAU GIỮA NAM VÀ NỮ TRÊN LÒNG BÀN TAY

Do những dị biệt về tính âm dương giữa nam và nữ, nam thuộc dương và nữ thuộc âm, nên vị trí tương ứng giữa hai huyệt Trường cường và Hội âm trên hai bàn tay phải và trái cũng tương phản nhau.

Ở nam, thiên khí từ đỉnh đầu qua nửa bên phải cơ thể xuống chân phải, địa khí theo chân trái đi lên, qua nửa bên trái cơ thể chạy lên đầu. Phần gốc các ngón tay thuộc tay trái ứng với huyệt Trường cường, phần gốc các ngón tay thuộc tay phải ứng với Hội âm. Ở nữ, thiên khí từ đỉnh đầu qua nửa bên trái cơ thể xuống chân trái, địa khí theo chân phải qua nửa bên phải cơ thể chạy lên đầu. Phần gốc các ngón tay thuộc tay phải của người nữ ứng với huyệt Trường cường, phần gốc các ngón tay trái ứng với huyệt Hội âm.

Sự khác biệt trên cần được lưu ý để không tác động nhầm lẫn vào Trường cường. Trường cường là gốc của chân Hỏa, chỉ được kích hoạt khi cần thiết và có giới hạn. Trường cường chỉ nên được khai mở và phát triển đồng bộ với sự phát triển của Nhâm Đốc và hệ kinh mạch chung. Trên thực tế, khi Nhâm Đốc đã được khai thông, chỉ cần tác động vào các đầu ngón tay, thiên khí sẽ tràn xuống theo mạch Nhâm. Khi đến cuối mạch Nhâm, tự khắc sẽ kích hoạt Trường cường đưa chân hỏa lên mạch Đốc, tuần hoàn thành một vòng Tiểu châu thiên mà không nhất thiết phải kích hoạt vào gốc các ngón tay.

Ngoài ra, việc nắm vững quy luật thăng giáng ở mỗi bên, bên phải hoặc bên trái còn có thể vận dụng để phát triển thành vòng Đại châu thiên bằng cách hít vào từ đỉnh đầu theo mạch Nhâm xuống chân phải (nam), và thở ra từ chân trái đi lên theo mạch Đốc đến tận đỉnh đầu. Do đó có cách nói hít một hơi chân khí từ Bách hội thông suốt đến đầu ngón chân cái, hoặc ngược lại từ đầu ngón chân cái lên đến tận đỉnh đầu.

   MỘT VÀI ẤN TIÊU BIỂU

altĐầu ngón cái chạm nhẹ đầu ngón trỏ ở cả hai bàn tay. Ngón trỏ là ngón ở gần ngón cái nhất. Do đó chỉ cần cong nhẹ hai ngón để hai đầu ngón chạm nhau là đủ để kết thành ấn, dễ tạo tình trạng buông lỏng cơ hai bàn tay hơn so với động tác đưa đầu ngón tay cái xa hơn để chạm với những đầu ngón khác như ngón giữa và áp út. Nói chung giống như các ấn tác động vào đầu ngón tay khác, ấn này có thể bổ sung kinh khí cho những đường kinh dương vì Bách hội là huyệt hội của những đường kinh Dương và mạch Đốc.

Ngoài ra kèm theo động tác đầu lưỡi chạm nướu răng trên để thông Nhâm Đốc, thiên khí từ Bách hội cũng sẽ tràn xuống mạch Nhâm là bể chứa của các kinh Âm. Do đó ấn có tác dụng vào cả hai mạch Nhâm Đốc để tăng cường nội khí. (Hình 1)

altĐầu ngón cái tay phải chạm đầu ngón áp út. Đầu ngón cái tay trái chạm đầu ngón giữa. Bên cạnh hiệu ứng chung thu Thiên khí và giáng khí, ấn này kích hoạt trực tiếp vào huyệt Quan xung ở gốc móng ngón tay áp út, Tĩnh huyệt của kinh Thiếu dương Đởm và Tam tiêu và huyệt Trung xung ở đầu móng ngón tay giữa,

Tĩnh huyệt của kinh Quyết âm can & Tâm bào lạc. Do đó ấn có tác dụng rất tốt trong việc sơ tiết Can khí, thư giải khí uất trong những chứng bệnh do căng thẳng tâm lý lâu ngày làm rối loạn thần kinh giao cảm, dẫn đến nhức đầu, mất ngủ, đau cơ, hay cáu gắt, suy nhược thần kinh, rối loạn kinh nguyệt, rối loạn tiêu hóa…(Hình 2).

altHai bàn tay đan chéo nhau sát tận gốc các ngón tay đặt trước bụng dưới, lòng bàn tay để ngửa, hai đầu ngón tay cái chạm nhau. Các ngón tay chạm nhau ở sát phần gốc và lòng bàn tay để ngửa đã tác động vào các kinh Âm và có tác dụng thăng khí.

Đây là một trong những ấn thường được sử dụng trong khi tĩnh tọa. Ấn có công năng thu âm khí và hóa khí. Huyệt Hội âm sẽ được kích hoạt, mạch Nhâm sẽ đi lên từ Hội âm, hướng năng lực tính dục thăng hoa lên phía trên để tái bổ sung cho cơ thể (Hình 3).

altĐầu ngón cái tay phải chạm đầu ngón áp út tay phải. Đầu ngón cái tay trái chạm gốc ngón áp út tay trái (nam). Ấn này phối hợp giữa Thiên khí từ Bách hội giáng xuống theo mạch Nhâm và chơn Hỏa thăng lên từ Trường cường trên mạch Đốc, một lên một xuống nối thành vòng Tiểu châu thiên.

Vì là ấn kích hoạt chơn Hỏa nên chỉ sử dụng giới hạn trong vài phút hoặc vài chục vòng Tiểu châu thiên trước khi tĩnh tọa hay chuyển sang các ấn bình thường ở đầu các ngón tay (Hình 4).

altĐầu ngón tay cái chạm gốc ngón tay áp út, bao các ngón còn lại chung quanh ngón cái và nắm chặt thành quyền. Hai bàn tay giống nhau. Ở ấn này, đầu ngón cái chạm gốc ngón áp út ở cả hai tay đã kích hoạt Hội âm và Trường cường, động tác nắm các ngón tay thành quyền quanh ngón cái có tác dụng tập trung nội khí vào hai trục trung tâm, tức hai mạch Nhâm Đốc nên là một ấn tăng cường chân khí khá mạnh.

Ấn có công năng làm ấm người, tăng sự can đảm, tăng cường chính khí để chống lại tà khí nên thường được gọi là Kim cang quyền ấn. Có lẽ đây là lý do khiến dân gian có tập tục nắm chặt ngón tay cái khi cảm thấy sợ sệt, mất bình tĩnh hoặc ban đêm phải đi qua những nơi tối tăm, lạnh lẽo (Hình 5).

altÁp hai bàn tay vào nhau, đan chéo hai ngón áp út và ngón út của hai bàn tay, hai ngón tay giữa thẳng lên, hai đầu ngón giữa áp vào nhau, hai ngón tay trỏ chạm vào lưng lóng giữa của ngón tay giữa cùng bên, hai đầu ngón cái cùng áp lên lóng giữa của ngón tay áp út bên phải.

Ở ấn này, hai ngón trỏ tác động vào chỗ giao liên của hai lóng đầu và lóng giữa của ngón giữa, và hai đầu ngón cái tác động vào lóng giữa ngón áp út phải nên có tác dụng tập trung chơn khí vào khu vực giao tiếp giữa trung tiêu và thượng tiêu. Trên thực tế, khi bắt ấn này, nội khí toàn thân sẽ hướng về huyệt Cưu vĩ.

Cưu vĩ nằm trên mạch Nhâm, phía dưới chỗ gặp nhau của hai bờ sườn, tương ứng với Luân xa 4 của khí công Ấn Độ. Nơi đây có một biệt lạc thông với mạch Đốc. Cưu vĩ là mộ huyệt của Tâm. Trong châm cứu học, Cưu vĩ có tác dụng trấn kinh, định thần, thư thái lồng ngực. Do đó ấn này có tên gọi là ấn định tâm (Hình 6).

Tóm lại có thể nói ấn bao gồm nhiều hình thức, nhiều tư thế khác nhau của những ngón tay, riêng lẻ hoặc phối hợp cả hai bàn tay, nhằm điều chỉnh khí hóa, định tâm an thần hoặc tăng cường chân khí.

BẮT ẤN (Mudra – Body posture :Thân ấn)

Ấn là gì ?

Là các tư thế khác nhau của cơ thể có nghĩa gốc là thư giãn. Nó có nguồn gốc từ Yoga. Đó là một loại yoga dễ hiểu và làm được dễ dàng. Nó vận hành giống như các nguyên tắc bấm huyệt và châm cứu. Nó dễ đến độ trẻ con cũng có thể làm được mà không mấy khó khăn.

Chỉ dẫn : Trước khi bắt ấn, hãy thở sâu, thư giãn tinh thần, ngồi xếp bằng hoặc ngồi bán già hoặc kiết già để bắt đầu bắt ấn.

1 Ấn Ling

alt

Đan chéo các ngón tay lại với nhau và để ngón tay cái vào phía bên trong và giơ ngón cái lên dựng đứng.

Công dụng : rất có ích để chữa bệnh ho.

.

.

.

2 Ấn Shunya :

alt

Gập ngón tay giữa lại nhấn ngón cái lên ngón giữa (bằng lòng của ngón cái) theo như hình vẽ, ba ngón còn lại thẳng.

Công dụng : rất có ích cho việc chữa các bệnh ở tai. Chúng ta nên làm ấn này từ 4 đến 5 phút nếu có vấn đề về tai : điếc , chảy nước tai

.

.

3 Ấn Prithvi :

alt

Đè ngón tay cái lên ngón út, còn các ngón khác giữ thẳng.

Công dụng : Làm tăng sức mạnh cho cơ thể và tống khứ mọi sự mệt mỏi, uể oải ra khỏi cơ thể.

.

.

.

4 Ấn Surya :

alt

Cong ngón nhẫn vào lòng bàn tay và đè ngón cái lên như hình vẽ (chạm vào móng của ngón đeo nhẫn bằng lòng ngón tay cái), ba ngón còn lại thẳng.

Lợi ích : Tống khứ mỡ thừa ra khỏi cơ thể.

.

.

 

5 Ấn Gyan :

alt

Cong ngón trỏ và ngón cái chạm vào nhau, các ngón khác thẳng

Công dụng : rất có ích trong việc chữa bệnh thần kinh rối loạn, mất ngủ (ngủ quá nhiều hoặc ít ngủ). Kém trí nhớ, người có tính nóng nảy. Thực hiện ít nhất 30 phút mỗI ngày.

.

.


6 Ấn Varun :

alt

Ngón cái và ngọn giữa chạm đầu vào với nhau, giữ các ngón khác thẳng

Công dụng : rất hữu dụng trong việc chữa trị bệnh thiếu máu (ít hồng huyết cầu) và các bệnh ngoài da.

.

.

.

7 Ấn Pran :

alt

Cong hai ngón út và ngón nhẫn lại và cho chạm vào ngón cái. Các ngón khác thẳng

Công dụng : Để làm giãm bệnh cận thị cho mắt và giải quyết các vấn đề khác về mắt.

.

.

.

.

8 Ấn Vaayu :

alt

Cong ngón trỏ và đè ngón cái lên lưng ngón trỏ như hình vẽ (chạm lên lưng trên móng của ngón trỏ bằng lòng ngón tay cái) . Giữ ba ngón kia thẳng

Công dụng : Rất có ích cho việc cho việc chữa trị các bệnh về khớp. Kết hợp cùng với ấn Pran lại càng tốt hơn.

  .
 .


         Quang Võ

tổng hợp và biên tập