Đạo mẫu và tín ngưỡng thờ tam phủ tứ phủ

Đạo thờ Mẫu là một tín ngưỡng dân gian có từ lâu đời và đặc biệt là rất thuần Việt , nói đến Đạo Mẫu người ta có thể liên tưởng ngay đến việc tôn vinh những vị nữ thần tối cao mà người ta tôn là Thánh Mẫu hay Quốc Mẫu , tuy nhiên trong đạo thờ Mẫu , người ta ko chỉ thờ riêng các vị Mẫu mà còn tôn thờ cả một hệ thống các vị thánh(Mà người ta thường gọi là , Tam Phủ Công Đồng Tứ Phủ Vạn Linh) với một trật tự chặt chẽ mà trật tự này được thể hiện trong các giá hầu đồng người ta thỉnh các vị Thánh Mẫu , Chúa Bà , Quan Lớn ,Chầu Bà , Quan Hoàng , Tiên Cô, Thánh Cậu theo trật tự nhất định . Sau đây người viết sẽ giới thiệu sơ qua hệ thống các vị thánh thần trong Đạo Mẫu''
Trong các đền phủ của Đạo Mẫu , luôn có rất nhiều ban thờ các vị thần thánh , và trước tiên ta phải kể đến vị thần tối cao nhất là NGỌC HOÀNG , tuy nhiên khi thỉnh đồng người ta không thỉnh NGỌC HOÀNG mà chỉ thờ cúng với hai vị quan ở hai bên là Nam Tào và Bắc Đẩu .Còn khi thỉnh đồng hay hầu đồng , người ta chỉ thỉnh các vị thánh từ phía dưới đây
I.Tam Tòa Thánh Mẫu:
Nếu ko kể đến Ngọc Hoàng thì ba vị Thánh Mẫu là ba vị Thánh tối cao nhất của đạo Mẫu ,khi hầu đồng người ta phải thỉnh ba vị Thánh Mẫu trước tiên rồi mới đến các vị khác , tuy nhiên có một điều là khi thỉnh mẫu người hầu đồng không bao giờ mở khăn phủ diện mà chỉ đảo bóng rồi xa giá ,đó là quy định ko ai được làm trái , và hầu như thế người ta gọi là "hầu tráng mạn" hay các cụ đồng cao tuổi gọi là "Trải qua xem rạng", sau giá mẫu , từ hàng Trần Triều trở đi mới đựoc mở khăn hầu đồng , cũng theo sách cổ thì vì ba giá Mẫu lại hóa thân vào ba giá Chầu Bà từ Chầu Đệ Nhất đến Chầu Đệ Tam , nên coi như Ba giá Chầu Bà là hóa thân của Ba giá Mẫu.Ba giá Mẫu trong Tứ Phủ gồm:
1.Mẫu Đệ Nhất Thiên Tiên : Cửu Trùng Thanh Vân Công Chúa hay chính là Công Chúa Liễu Hạnh .Đền thờ Mẫu Liễu có ở khắp mọi nơi nhưng quần thể di tích lớn nhất là Phủ Dày , Vụ Bản ,Nam Định ( Mở hội ngày 3/3 ÂL)tương truyền là nơi Mẫu hạ trần với các đền phủ như Phủ Chính , Phủ Công Đồng , Phủ Bóng (Đền Cây Đa Bóng),ngoài ra còn có Đền Sòng ở Thanh Hoá ,Phủ Tây Hồ ở Hà Nội
2.Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn : Đông Cuông Công Chúa.Tương truyền là vị Thánh Mẫu cai quản Thượng Ngàn rừng núi. Đền thờ chính là Đền Đông Cuông ,Tuần Quán thuộc tỉnh Yên Bái
3.Mẫu Đệ Tam Thoải Cung: Xích Lân Long Nữ .Tương truyền là vị Thánh Mẫu , con Vua Bát Hải Động Đình ,cai quản các sông suối , biển , các mạch nước trên đất Nam Việt .Người ta thường lập đền thờ bà ở các cửa sông , cửa biển để cầu biển lặng sóng yên
II.Chư Vị Trần Triều:
Trong dân gian ta có câu
"Tháng tám hội Cha, tháng ba hội Mẹ"
Mẹ ở đây là chỉ Mẫu Liễu Hạnh ,còn Cha chính là Đức Thánh Trần Hưng Đạo , một vị cũng được hầu trong Đạo Mẫu , cùng với một số giá gọi là hàng Trần Triều .Tuy nhiên theo một số cụ già đồng cựu cho biết thì bên Đạo Mẫu và bên Trần Triều rất kị nhau , vì thế phải là người đồng nào có căn mạng thì khi hầu đồng mới thỉnh và hầu về các giá Trần Triều sau giá Mẫu , còn không thì thông thường người ta thường không thỉnh về hàng Trần Triều.Chư vị Trần Triều gồm:
1.Đức Thánh Ông Trần Triều: Hưng Đạo Đại Vương , (ông là một trong số 17 vị tướng tài ba nhất trên thế giới )người ta tôn làm Đức Thánh Trần , giúp dân sát quỷ trừ ma , trừ dịch bệnh,thế nên ở đâu có giặc dã dịch bệnh thì đều cầu đảo ông tất đựoc linh ứng, khi hầu đồng về giá này ,người ta mặc áo bào đỏ thêu rồng ,tay cầm thanh đao, ngoài ra theo một tục cổ , khi hầu về giá Đức Thánh Ông Trần Triều , người hầu đồng còn cầm dải lụa đỏ rồi mô phỏng động tác thắt cổ .Đền thờ ngài cũng có ở rất nhiều nơi nhưng lớn nhất vẫn là đền Kiếp Bạc , Chí Linh ,Hải Dương với hội mở ngày 20/8 ÂL ngoài ra còn có đền Bảo Lộc ,Tức Mặc ,Thiên Trường ,Nam Định
2.Đệ Nhất Vương Cô : cô là con gái lớn của Hưng Đạo Đại Vương , khi về đồng hay mặc áo đỏ thêu rồng , đội khăn đóng , vấn khăn đỏ phủ lên,tuy nhiên có ít người hầu giá này mà cũng chỉ tráng bóng , người ta khi hầu về Trần Triều , chỉ hay hầu về Đức Thánh Trần và Đệ Nhị Vương Cô
3.Đệ Nhị Vương Cô: cô là con gái thứ của Hưng Đạo Đại Vương ,khi về đồng hay mặc áo xanh thêu rồng , đội khăn đóng , vấn khăn xanh phủ lên ,có kiếm cờ giắt sau lưng , hai tay cũng cầm kiếm và cờ ,theo quan niệm , cô cũng là người có phép sát quỷ trừ tà , người hầu về giá này thường đốt một bó hương rồi cho vào miệng ngậm tắt lửa gọi là tiến lửa hay ăn lửa để tróc tà .
Trong hát văn , ca ngợi hai vị Vương Cô(Các bà cụ hầu bóng về hàng Trần Triều thường tôn xưng Nhị Vị Vương Cô là "Kim Chi Đôi Nước") như sau :
Khi xuống đất lúc lên trời
Gươm vàng hai chiếc rạch đôi thiên hà
Gánh hai vai giang sơn còn nhẹ
Tuốt gươm thiêng rạch sẻ chín sông
III.Tam Vị Chúa Mường:
Trên Toà Sơn Lâm Sơn Trang có 18 Chúa Bói,12 Chúa Chữa, nhưng khi hầu đồng , chỉ thỉnh ba vị tối thượng gọi là Tam Vị Chúa Mường , ba vị Chúa này là những người phụ nữ nhân đức , cả đời làm việc phúc giúp dân chúng và triều đình nên được người đời nhớ ơn và lập đền thờ :
1,Chúa Đệ Nhất Thượng Thiên : Chúa Thượng ,bà là người giúp vua trị quốc an dân , hơn nữa theo quan niệm , Chúa Đệ Nhất là người nắm giữ sổ Tam Tòa , trông coi mọi việc nên được tôn làm Chúa Thượng ,ngoài ra thì những người có tài cúng lễ đều là do bà dạy và ban lộc nên đều phải do bà Chúa Thượng dạy đồng, khi về đồng bà mặc áo gấm hoặc lụa đỏ thêu hoa thêu phượng , và chỉ cầm quạt khai quang,khám xét bản đền,chứng tâm cho lòng thành của gia chủ đên thơ bà tại tam đảo ? tây thiên
2,Chúa Đệ Nhị Nguyệt Hồ (Chúa Nguyết Hồ): Chúa Bói, bà là người có tài xem bói , tương truyền mỗi khi đức vua ra trận đều nhờ người đến thỉnh bà bấm đốt tay xem xét , những người xem bói đều phải lập đàn tôn nhang Bà Chúa Đệ Nhị Nguyệt Hồ gọi là mở đàn Chúa Bói,khi về đồng bà mặc áo xanh, múa mồi.Đền thờ bà là Đền Nguyệt Hồ ,Phố Kép ,Bố Hạ , Bắc Giang
3,Chúa Đệ Tam Lâm Thao: Chúa Chữa , bà còn đựoc gọi là Chúa Ót, bà chúa mồ côi cha mẹ từ bé và bị mù nhưng bà lại có tài bốc thuốc nam cứu dân ,khi về đồng bà mặc áo trắng , đội khăn choàng trắng và múa mồi.Đền thờ bà là Đền Lâm Thao,Cao Mại,Việt Trì, Phú Thọ
IV.Ngũ Vị Tôn Ông_Công Đồng Quan Lớn
Là các vị quan lớn trong Tứ Phủ , cai quan bốn phương và trung tâm ,đều là các vị hoàng tử danh tướng , có công với quốc gia .Gọi là Ngũ Vị Tôn Ông vì theo hàng chính là gồm 5 vị quan lớn , nhưng ở một số nơi(như Hải Phòng) khi hầu đồng người ta thỉnh 6 vị sau
1.Quan Đệ Nhất :Tương truyền là Tôn Quan Đại Thần ,sắc phong tước Công Hầu , ngôi Thượng Thiên ,khi ngự đồng mặc áo đỏ thêu rồng và chỉ làm lễ tế và chứng sớ điệp
2.Quan Đệ Nhị :Quan Thanh Tra Giám Sát,sắc phong Thái Hoàng ,tương truyền là người cai quản sơn lâm thượng ngàn , thông tri thiên địa, có thể lệnh sai Hà Bá, Thủy Thần làm mưa gió ,khi ngự đồng mặc áo xanh thêu rồng .Đền Quan được ca ngợi là đẹp nhất trời Nam chính là đền Quan Giám , Lạng Sơn với ngày hội chính là 10/11 ÂL
3.Quan Đệ Tam : Quan Tam Phủ , Bơ Phủ Vương Quan ,sắc phong Thái Tử Đệ Tam , con Vua Bát Hải Động Đình ,là người nắm giữ kỉ cương nơi Long Cung ,cai quản Sơn Thoải Đại Giang ,các con sông trên khắp nước Nam .Cũng theo tương truyền thì ông giáng trần cứu dân , trở thành vị tướng thủy quân tài ba ,khi ngự đồng mặc áo trắng thêu rồng , tay cầm song kiếm tung hoành giữa trận tiền , theo truyền thuyết , trong một trận quyết chiến bên sông Lục Đầu , ông hy sinh , bị giặc chém mất đầu , chiếc đầu bay sang bờ bên kia con sông Lục Đầu , vì thế mới có hai đền quan hai bên bờ sông Lục Đầu,Hưng Yên là Đền Lảnh Giang _nơi thờ mình và Đền Xích Đằng_nơi thờ đầu với ngày hội chính là 24/6 ÂL
4.Quan Đệ Tứ :Quan Khâm Sai,sắc phong Thái Tử Thiên Cung , là người quản cai Tam Giới Tứ Phủ ,ông cai quản chuyện mười phương trên trời dưới đất , kiêm chi cả đạo phật thiền gia , khi ngự đồng mặc áo vàng thêu rồng , cũng chỉ làm lễ và chứng điệp sớ (Tuy nhiên khá ít người khi hầu đồng về giá này )
5.Quan Đệ Ngũ :Quan Tuần Tranh ,sắc phong Công Hầu ,là vị tướng tài dưới thời Hùng Vương 18 cai quản miền duyên hải sông Tranh , giúp vua dẹp giặc Triệu Đà, tuy nhiên do bị oan khuất nên bị đày về vùng Kì Cùng ,Lạng Sơn ,theo quan niệm dân gian , quan Tuần Tranh là người cai quản thiên binh nhà trời , theo sắc vua phong thì ông kiêm chi Tam Giới,khi thượng đồng ban dấu cứu dân trừ tà, khi hiển ứng linh từ thì nổi trận phong vân , thần cơ vang dậy khắp mọi miền, được nhân dân thờ phụng ở khắp các cửa sông mà hai ngôi đền lớn nhất là Đền Quan Lớn Tuần Tranh tại Ninh Giang , Hưng Yên là nơi quê nhà ở bên bờ sông Tranh và Đền Kì Cùng , Lạng Sơn là nơi ông bị đày bên bờ sông Kì Cùng có cây cầu Kì Lừa (đã đi vào ca dao ), khi ngự đồng mặc áo lam thêu rồng cầm long đao , về giúp dân tróc quỷ trừ tinh, tế độ sinh nhân .Ngày mở hội ông là ngày 25/5 ÂL _là ngày ông bị đi đày
6.Quan Điều Thất:Là hàng Quan thứ 7 , giá Quan này chỉ một số nơi mới thỉnh về ngự đồng (như Hải Phòng , Hưng Yên , Bắc Ninh )ông Điều Thất cũng là con vua Bát Hải Động Đình ,giáng thế giúp dân, khi ngự đồng mặc áo đỏ điều thêu rồng
V.Tứ Phủ Chầu Bà
Cũng như các vị Chúa Mường , các vị Chầu Bà trong Tứ Phủ cũng là những người phụ nữ nhân đức hay các nữ tướng có công với dân với nước nên khi từ trần được nhân dân thờ phụng và được tôn thành các vị Chầu Bà trong Tứ Phủ , được Vua Mẫu giao cho cai quản sông núi và mọi việc nhân gian.Hàng Tứ Phủ Chầu Bà có 12 vị tuy nhiên cũng như ở một số nơi có sự khác nhau , thêm 2 vị nữa vào hàng thứ 3 và thứ 5.Các vị Chầu Bà gồm :
1;Chầu Đệ Nhất Thượng Thiên :được coi là hóa thân của Mẫu Đệ Nhất khi thỉnh đồng (Vì Tòa Thánh Mẫu ko mở khăn ngự đồng ), là vị Chầu tối thượng ,đứng đầu hàng Chầu , ngự tại Ngọc Điện , Thượng Giới ,cũng có khi bà rong chơi Phủ Tía , Lầu Hồng ,vui vẻ ngự trong Đền Rồng sớm hôm .Tuy nhiên cũng khá ít người mở khăn phủ diện để hầu Chầu Đệ Nhất
2;Chầu Đệ Nhị Thượng Ngàn :được coi là hóa thân của Mẫu Đệ Nhị ,bà vốn là Công Chúa Thiên Thai , giáng sinh Hạ Giới , quyền cai thượng ngàn , quyền cai tam thập lục châu .Khi ngự đồng chầu mặc áo xanh thêu hoa ,đầu vấn khăn xanh ,cài trâm hoa ,tay cầm mồi tượng trưng cho bó đuốc đi rừng ,hơn nữa khi hầu về giá này còn có một tục rất đặc biệt là nghi thức Trình Trầu hay Đội Trầu :các đệ tử ai có căn mạng hoặc đã tôn nhang bản mệnh,vào ngày hầu đồng trong lễ Thượng Nguyên (đầu năm mới) , ngồi phủ khăn đỏ đầu đội mâm trầu cau để"trước trình Phật Thánh sau trình Vua Cha,trình lên Tứ Vị Vua Bà ,trình đồng Tiên Thánh , trình tòa Sơn Trang , trình lên Thập Vị Quan Hoàng ,Tiên Cô ,Thánh Cậu chứng mâm giầu trình " ,khi trình người ngồi lễ phải đặt lên mâm trầu cau 1200 đ hoặc 12000 đ (tùy mỗi nơi )tượng trưng dâng lên 12 giá chính của hàng Chầu Bà là những vị giúp mình được đội giầu.Đền thờ Chầu Đệ Nhị chính là Đền Đông Cuông , Tuần Quán , Yên Bái
3;Chầu Đệ Tam Thoải Cung :được coi là hóa thân của Mẫu Đệ Tam , là Lân Nữ Công Chúa , Ngọc Hồ Thần Nữ , vốn là con vua Thủy Tề ,ngự tại Thủy Phủ Thiên Thai chốn Thoải Cung,Tam Phủ .Bà được coi là người cai quản các sông suối biển hồ mạch nước trên đất Nam Việt , bà độ cho thuyền bè trên sông trên biển được thuận buồm xuôi gió.Câu chuyện về vị Xích Lân Long Nữ này rất buồn :Bà vốn con vua Thủy Tề Bát Hải Động Đình ,lên nhân gian kết loan phòng cùng nho sĩ Kính Xuyên,Kính Xuyên đi vắng bà ở nhà khâu áo ,chẳng may kim đâm vào tay ,bà lấy mảnh vải trắng thấm máu , đứa tì nữ Thảo Mai nhặt lấy,khi Kính Xuyên về nó vu oan cho bà là ở nhà cắt máu ăn thề tư thông với kẻ khác ,Kính Xuyên ko nghe bà thanh minh ,một mực đuổi bà đi ,bà đành phải tìm đường về thủy phủ ,trên đường đi bà ngồi khóc bên vệ đường thì gặp văn sĩ Hữu Nghị , ông hỏi bà kể hết sự tình ,rồi bà lấy máu ,viết thư kể hết nỗi oan và từ biệt Kính Xuyên rồi nhờ Hữu Nghị đưa giúp,về phần mình bà ra bờ biển Đông đến chỗ có cây ngô đồng ,bà rút cây kim thoa trên đầu gõ vào cây , tức thì dưới thủy phủ có quan quân xe lọng lên rước bà về , về phần Kính Xuyên sau khi xem thư , ngộ ra mọi việc , chạy ra bờ biển thì xe loan đã từ từ đưa bà về thủy phủ ,tất cả chỉ còn lại hình bóng mờ ảo
4;Chầu Đệ Tứ Khâm Sai : Bà được phong danh là Chiêu Dung Công Chúa , giáng thế là Chầu Bà Khâm Sai giúp dân , ngự đồng ảnh bóng khắp miền gần xa, hơn nữa Chầu cũng là người có quyền tra sổ Thiên Đình để đổi số nhân sinh là cũng là người quyền cai bản mệnh gia trung ,khi ngự đồng bà mặc áo vàng thêu rồng một tay cầm kiếm một tay cầm cờ để đi cứu dân .Đền thờ bà là Đền Khâm Sai hay Phủ Bà Đệ Tứ( còn gọi làđền Cây Thị )ở Quý Hương , An Thái ,Vụ Bản ,Nam Định
5;Chầu Năm Suối Lân : Bà là vị Chầu trên Sơn Trang Thượng Ngàn ,trấn cửa rừng Suối Lân dưới thời Lê Trung Hưng ,bà có phép thần thông biến lá thành thuyền ,cứ trăng thanh , hổ báo Chầu hiện về .Chầu ngự đồng mặc áo xanh hoặc áo lam thêu hoa cỏ ,đầu vấn khăn chàm tím.Đền Chầu là đền Suối Lân ,ngay bên cầu Sông Hóa 2 ở Lạng Sơn ,bên cạnh đền có con suối quanh năm xanh ngắt chính là Suối Lân
6;Chầu Lục Cung Nương :Bà là Lê Triều Lục Cung Công Chúa trên Thượng Ngàn ,cũng như Chầu Năm ,bà trấn cửa rừng Chín Tư ,theo tương truyền Chầu Lục cũng là người có phép thần thông và rất đành hanh ,thường rong chơi có khi chơi núi Giùm,Ỷ La ,chầu có phép hô thần chú làm cả núi rừng chuyển động ,tà ma phách tán hồn xiêu ,người trần gian ai ko biết ,làm điều sai trái chầu liền qưở ngay và hành cho bị điên, lúc đó phải sắm nón xanh hài xảo để sám hối đền Chầu. Khi ngự đồng chầu thường mặc trang phục gần giống với Chầu Năm Suối Lân .Đền Chầu lập tại rừng Chín Tư , Hữu Lũng ,Lạng Sơn ,gọi là đền Lũng với ngày mở hội là 20/9 ÂL
7;Chầu Bảy Kim Giao :Bà cũng là một vị Chầu Bà trên Thượng Ngàn ,theo tương truyền bà cũng là vị Chầu Bà của dân tộc Mọi ,bà giúp người dân tộc Mọi biết làm ăn buôn bán nên được nhân dân nhớ ơn lập đền thờ .Khi về đồng Chầu mặc áo gấm tím .Đền Chầu là Đền Kim Giao ,Mỏ Bạch ,Thái Nguyên
8;Chầu Tám Bát Nàn :Bà tên thật là Vũ Thục Nương ,quê ở Tiên La ,Đông Hưng ,Thái Bình .Bà là Nữ Tướng dưới thời Hai Bà Trưng ,phất cờ khởi nghĩa tại quê nhà để trả thù cho tướng công là Phạm Hương và cứu dân thoát khỏi Bát Nạn (8 nạn ) nên nhân dân suy tôn làm Bát Nàn Đại Tướng Quân (Bát Nàn là đọc chệch đi của từ Bát Nạn ),sau này năm 43(SCN) bà hi sinh tại thị trấn Đồng Mỏ ,Lạng Sơn.Vậy nên hiện giờ có 2 đền thờ bà là Đền Tiên La ,Đông Hưng ,Thái Bình là nơi quê nhà và Đền Đồng Mỏ ,Lạng Sơn là nơi bà hi sinh .Khi ngự đồng bà mặc áo vàng ,đội khăn đóng ,sau lưng giắt kiếm cờ ,hai tay cũng cầm kiếm và cờ lệnh xông pha một mình phá mấy vòng vây .Ngày mở hội bà là ngày 17/3 ÂL
9;Chầu Chín Cửu Tỉnh :Bà là Chầu Cửu (Theo âm Hán :Cửu là chín ,Tỉnh là giếng nên Cửu Tỉnh dịch là Chín Giếng )cai quản giếng âm dương điều hòa định thái,khi thanh nhàn bà ngự trên chiếc xe rồng dạo chơi.Khi về đồng chầu mặc áo hồng ,cầm quạt khai quang .Đền Chầu ngự cũng là đền Sòng ở Bỉm Sơn Thanh Hóa
10;Chầu Mười Mỏ Ba : Bà là Nữ Tướng trấn giữ ải Chi Lăng ,giúp vua Lê Thái Tổ giết được tướng giặc Liễu Thăng ,sau lại giúp dân lập ấp lên vùng Mỏ Ba ,được triều đình phong công,trẻ già nhớ ơn ,đến cuối thu chầu mãn hạn về thiên nhưng hàng đêm khi canh ba giờ Tí Chầu hiện ra ,cưỡi trên mình ngựa hiên ngang oai hùng và lưng đeo kiếm bạc cung vang ,cờ lệnh do vua ban.Khi ngự đồng Chầu mặc áo vàng ,đeo vòng bạc đai xanh mĩ miều ,chân quấn xà cạp ,tay cầm kiếm ,tay cầm cờ hoặc mồi .Đền Chầu là Đền Mỏ Ba ,lập ngay sát ải Chi Lăng ,Lạng Sơn
11;Chầu Bé Thượng Ngàn :Đây là tên gọi chung các vị Chầu Bà người Thổ Mường ,hầu hàng thứ 11 ,được coi là các vị Chầu Bé đành hanh nhưng tài phép ,cai quản Tòa Sơn Trang ,có Thập Nhị Bộ Tiên Nàng hầu cận ,khi về đồng mặc quầy(váy)& áo (dân tộc )đầu chít khăn thổ cẩm ,chân quấn xà cạp ,vai đeo gùi tay cầm mồi soi đường .Có rất nhiều vị Chầu Bé ở các Đền khác nhau , nhưng người ta hay thỉnh nhất là các vị sau:
a;Chầu Bé Bắc Lệ
b;Chầu Bé Đông Cuông
c;Chầu Bé Đồng Đăng
d;Chầu Bé Tam Cờ
12;Chầu Bé Thoải Cung :Bà cũng là chầu Bé nhưng là ở dưới Thoải chứ ko phải trên Thượng như các Chầu Bé ở hàng thứ 11 ,nên được thỉnh riêng đứng hàng thứ 12.Tuy nhiên cũng có rất ít người hầu về giá này
Như đã nói ở trên, ngoài 12 vị Chầu Bà chính ,một số nơi , đôi lúc người ta thỉnh thêm 2 vị nữa vào hàng thứ 3 và thứ 5 đó là:
3*;Chúa Thác Bờ : đôi khi vào hàng Chầu Bà , người ta thỉnh Chúa Thác Bờ sau giá Chầu Đệ Tam hoặc ko thỉnh Chầu Đệ Tam mà thỉnh luôn Chúa Thác .Chúa Thác Bờ là bà Chúa người Mường (Nhưng ko thuộc hàng Tam Vị Chúa Mường ),giáng tại Hoà Bình .Tương truyền Chúa Thác vốn là tiên nữ giáng sinh tại nơi thắng tích ,dạy người Mường biết trồng trọt ,đánh bắt cá dưới sông Đà .Khi thanh nhàn Chúa thường bẻ lái dạo chơi khắp chốn ,vượt sông Đà dạo khắp suối khe ,rong chơi Hang Miếng ,Suối Rút ,Chợ Bờ,Hang Pía ,Chợ Phương Lâm ,Kim Bôi ,Chầm Mâm ,Yên Lịch và dấu tích còn ghi lại rõ nhất là ở Động Tiên ngay giữa dòng sông Đà .Khi về đồng có lúc Chúa mặc áo trắng và khăn choàng trắng , có khi lại mặc váy đen áo trắng đai xanh ,bên hông có xà tích bạc ,túi dao quai ,một tay cầm mồi , một tay cầm mái chèo bẻ lái giữa dòng sông Đà cuồn cuộn sóng dữ .Đền thờ Chúa Thác là Đền Thác Bờ ở Kim Bôi ,Hoà Bình gần với công trình thuỷ điện Thác Bà và Hoà Bình ,đường đi rất khó khăn , phải đi bằng ca-nô mới đến được
5*;Chúa Bà Năm Phương :Giá này thường đựoc hầu ở Hải Phòng và được thỉnh trước giá Chầu Năm Suối Lân .Chúa được tôn là Chúa Bà Năm Phương Ngũ Phương Bản Cảnh vốn là Bạch Hoa Công Chúa ,sau bị trích giáng vào nhà họ Vũ ở cửa Cấm Giang , Gia Viên,đi về tại cây đa mười ba gốc ,tương truyền Chúa bà là người cai quản bản cảnh ngũ phương trong trời đất .Khi ngự đồng có khi Chúa mặc cả bộ trắng cũng có khi chỉ phủ chiếc khăn phủ diện đỏ làm khăn choàng ,về khám xét bản đền chứng tâm cho gia chủ rồi cầm tiền tung lên để khai quang trong ngày đầu năm .Người ta thương dâng Chúa bộ nón hài và đĩa hoa trắng (bạch hoa) ,trong đàn mã mở phủ phải có một cỗ xe trắng dâng Chúa Bà .Đền Chúa bà là Đền Cấm , Phố Cấm ,Lê Lợi ,Hải Phòng , tuy nhiên nơi tập trung đông nhất là Vườn Hoa Chéo ,Hải Phòng
VI.Tứ Phủ Ông Hoàng _Hội Đồng Quan Hoàng
Trong dòng tranh dân gian Hàng Trống có một bức tranh vô cùng nổi tiếng trong loại tranh thờ đó là "Ông Hoàng cầm quân".Bức tranh đã miêu tả một vị thánh đại diện cho một hàng trong Tứ Phủ đó là các Ông Hoàng hay Quan Hoàng.Cũng như hàng Quan Lớn ,các Ông Hoàng cũng đều là những hoàng tử hay danh tướng có tài giúp dân giúp nước nên được nhân dân thờ phụng .Hàng Ông Hoàng gồm:
1,Ông Hoàng Cả :Vốn là con Đức Vua Cha ,giáng trần mang vẻ lịch sự tốt tươi ,độ cho dân chúng ấm no ,khi thì ông rong chơi thượng giới cưỡi con Xích Long .Khi ngự đồng ông mặc áo đỏ thêu rồng kết thành hình chữ thọ ,đầu đội khăn xếp,có phủ vỉ lép màu đỏ
2,Ông Hoàng Đôi :còn gọi là Quan Triệu Tường ,ông là danh tướng họ Nguyễn , thời phù Lê dẹp Mạc ,có công lớn với nhà Lê ,tương truyền ông đem quân lên ngàn làm cho đùng đùng súng nổ dậy vang đất trời .Khi ngự đồng mặc áo xanh thêu rồng kết thành hình chữ thọ đầu đội khăn xếp ,có phủ vỉ lép xanh ,tay cầm lá cờ lệnh to may bằng vải ngũ sắc .Đền thờ ông là Đền Quan Triệu ở Thanh Hóa
3,Ông Hoàng Bơ :Vốn là con vua Bát Hải Động Đình ,hay biến hiện lên mặt nước lạ lùng với chân dung đẹp khác thường ,thường phù trợ cho người làm ăn buôn bán và những ngư dân đánh cá ,khi thanh nhàn ông thương ngồi trên thuyền rồng dạo chơi uống rượu đánh cờ ngâm thơ nghe đàn thả hồn cùng gió trăng .Khi ngự đồng ông mặc áo trắng thêu rồng kết thành hình chữ thọ ,đai vàng ,đầu đội khăn xếp có phủ vỉ lép trắng .tay cầm đôi hèo hoa ,cũng có khi một tay cầm quạt ,một tay cầm mái chèo thong thả chèo thuyền dạo chơi .Đền thờ ông thường được lập ở các cửa sông
4,Ông Hoàng Bơ Bắc Quốc :ông vốn là thương gia bên Trung Quốc , từ nước Đại Yên sang Nam Việt bán buôn và cứu giúp người nghèo khổ lên đựoc suy tôn làm Ông Bơ nhưng là Ông Bơ Bắc Quốc để phân biệt với Ông Hoàng Bơ Thoải của Việt Nam .Khi ngự đồng ông mặc áo tàu đội mũ ô sa .Đền thờ ông là Đền Quan trên Bắc Giang
5,Ông Hoàng Bảy Bảo Hà :Ông vốn là con vua Thượng Đế Ngọc Hoàng , giáng vào nhà họ Nguyễn người Tày Nùng làm người con thứ 7 .Ông là người có công giúp vua Lê dẹp giặc trên vùng biên giới và giúp dân chúng khai hoang lập ấp ,nên sau khi ông hy sinh trôi dạt vào nơi bên phà Trái Hút người ta lập đền thờ ông.Theo tương truyền, ko chỉ là vị tướng giỏi tunh hoành trên đất Lào Cai mà Ông Bảy còn là người nổi tiếng phong lưu , ông hút thuốc phiện (vậy nên mới gọi đất ông ngự là Trái Hút Bảo Hà ),đánh tổ tôm tam cúc ,uống trà mạn Long Tỉnh ,ăn chơi đủ mùi , khi đi rong chơi có 12 cô tiên nàng theo hầu dâng ông đủ các thứ như bánh kẹo thuốc lá trà tàu ,ngựa xám ,hèo hoa ,lại có cô múa hát theo sau .Vậy nên những người đựoc ăn lộc ông như là đựoc lộc tự nhiên có lộc đánh bài thì đều dâng tạ ông một bộ bàn đèn làm bằng giấy .Khi ngự đồng ông mặc áo lam thêu rồng kết thành hình chữ thọ đầu đội khăn xếp phủ vỉ lép xanh lam ,tay cầm đôi hèo hoa phi ngựa đi chấm đồng , nếu người nào được ông ném cây hèo vào người thì coi như người đó đã được chấm đồng và phải ra hầu Tứ Phủ ,khi ông ngồi ngự có điệu hát dâng trà ,rồi cả điệu hát miểu tả khi thanh nhàn ông ngồi đánh tổ tôm ,tam cúc .Đền thờ ông là Đền Bảo Hà ,bên bến phà Trái Hút ,thị xã Lào Cai ,Yên bái ,quanh năm tấp nập du khách đến lễ bái không chỉ cầu được lộc cờ bạc mà còn cầu lộc làm ăn buôn bán
6,Ông Hoàng Mười Nghệ An :còn gọi là Ông Mười Củi ,vốn là thần tiên trong chốn Đào Nguyên ,giáng trần trở thành vị tướng tài dưới thời nhà Lê ,ko chỉ giỏi cầm quân ông còn là người có tài năng về văn chương thơ phú từ trong Nam Đàn Nghệ Tĩnh đều nghe nức danh Quan Hoàng Mười ,ông thường đi dạo trên lưng ngựa với bầu rượu túi thơ .Khi ngự đồng ông mặc áo vàng thêu rồng kết thành hình chữ thọ ,đầu đội khăn xếp có vỉ lép vàng trên đầu ông ,các đệ tử thường lấy tờ tiền 10.000 cài vào que hương tượng trưng cho việc dâng ông lá cờ ,có khi ông ngự đồng cầm lá cờ lệnh ngũ sắc chỉ huy quan quân , cũng có khi ông cầm đôi hèo đi chấm đồng , hoặc ông cầm chiếc quật tàu làm sách , nén hương làm bút đi bách bộ đề thơ ,khi ông ngồi ngự động thì có điệu hát mời đọi chè xanh ,mời miếng cau đậu trầu vàng là các đặc sản xứ Nghệ quê ông ,lại còn có điệu hò xứ Nghệ nghe rất êm ái mượt mà ,đúng với "đất lề quê thói "Nghệ An ,những người nào muốn xuất ngoại , làm ăn buôn bán hoặc học hành thành công đều đến cửa ông để xin lộc .Đền ông là Đền Chợ Củi ,qua cầu Bến Thủy ,bên dòng sông Lam ,Nghệ An
VII.Tứ Phủ Tiên Cô
Tứ Phủ Tiên Cô là một hàng gồm các cô tiên nàng theo hầu cận các Thánh Mẫu ,Chúa Mường ,Chầu Bà .Các Tiên Cô đều là những cô gái đoan trang ,gương liệt nữ ,cũng có công với giang sơn xã tắc nên được nhân dân suy tôn và lập đền thờ phụng .Tứ Phủ Tiên Cô gồm:
1.Cô Nhất Thượng Thiên : Cô là Tiên Nữ trên Ngọc Điện ,hầu Vua Mẫu ,thường giúp trần gian có lời kêu cầu tấu thỉnh với các Tòa các giá trong Tứ Phủ ,cũng có khi cô giáng trần làm phép hóa ra thuốc trị bách bệnh ,khi thanh nhàn Cô Nhất rong chơi khắp chốn từ Hà Nội, Bắc Ninh ,Hải Phòng cho đến Quảng Bình ,Quảng Trị ... ,từ nội thành ngoại thị ,kinh đô cô đi về ,cô bắt đồng người má phấn lưng ong.Khi ngự đồng cô mặc áo lụa đỏ thêu hoa phượng ,đội khăn đóng phủ vỉ lép đỏ ,cài hoa ,tay cầm đôi quạt ngà quạt mát cho thế gian .Đền Cô Nhất thuộc tỉnh Nam Định
2.Cô Đôi Thượng Ngàn:Hiệu cô là Công Chúa Sơn Tinh,cô ngự cảnh Bồng Lai, Thiên Thai .Cô rất xinh đẹp ,về đồng đánh phấn soi gương , lược ngà chải chuốt ,khăn voan quấn đầu,da cô hây hây tựa tuyết ngà đông ,tóc già già biếc má xinh phấn hồng ,chân đi đưa nhởn đưa nhang , bước nào ra bước tiên nàng hái hoa .Cô là vị Tiên Cô hầu Vua hầu Mẫu ba tòa,cô đại tài ,tiếng tăm lừng lẫy được Vua Bà yêu thương ,đệ tử cô có vô số hằng hà , lộc Sơn Lâm Cô lấy để lấp biển Đông mà vẫn tràn đầy ,nhưng có một điều ,nếu ai đã được cô ban lộc thì đừng hững hờ muốn quên , nếu quên thì cô để cho quên rồi sau này lại bắt đền làm đôi .Lúc thanh nhàn cô rong chơi Quán Sở Tần Lầu rồi lại ngự xa giá lên chầu Thượng Đế Vua Cha ,hoặc có khi cô ngồi trên ngàn tay đàn miệng hát ca ngâm hoặc niệm Phật Quan Âm.Cô rất hay thử lòng người thế gian , cô đã từng làm chau mày quân tử xót xa anh hùng .Khi ngự đồng cô mặc áo lá xanh ,đầu vấn khăn kết thành hình hoa,có vấn vỉ lép xanh ,tay cầm mồi .Đền Cô là ngôi đền nhỏ nằm ngay gần Đền Đông Cuông ,trước cửa Đền Cô có giếng nước quanh năm trong vắt
2*.Cô Đôi Cam Đường :Cô là người tiên nữ giáng sinh ở đất Đình Bảng ,Bắc Ninh ,gia đình đời nối đời buôn bán vải tơ,cô rất xinh đẹp ,dáng thanh thanh mắt tựa sao sa , thơm thơm tóc phượng già già hây hây má phấn da ngà lưng ong ,có má lúm đồng tiền sáng trong ngọc bích , nở nụ cười làm cho liễu nguyệt hờn ghen.Cô bán vải từ đường Quan Lộ ,Chợ Dầu,Đình Bảng với đủ các loại tơ lụa ,vải sồi ,lĩnh tía ,chàm xanh ,nâu non , vải rồng ,hoa trơn .Dù đường xa lắc mà lòng cô không ngại , chỉ muốn giúp người đời có vải hộ thân làm cho niềm tin đồn đại xa gần , khiến cô đi tới đâu thì hoa cười chim hót , các bạn nàng nhẹ gót thênh thênh .Sau khi cô trở về trời để lại nhớ thương cho nhân dân .Khi ngự đồng cô mặc áo tứ thân xanh ,chít khăn mỏ quạ ,đội nón quai thao (nón ba tầm ),trên vai là chiếc đòn gánh cong với hai đầu là đôi túi đẫy dịu dàng đựng vải .Tuy cô quê ở Bắc Ninh nhưng lại hiển thánh tại thị xã Cam Đường ,Lào Cai nên nhân dân tại đó nhớ ơn đã lập đến cô là Đền Cô Đôi Cam Đường.
3.Cô Bơ Hàn Sơn :Hay còn gọi là Cô Bơ Bông .Cô vốn là con Vua Thủy Tề hầu trong Cung Quảng Hàn ,rất xinh đẹp ,cổ kiêu ba ngấn , tóc mượt , mắt phượng lồng gương , da ngà điểm tuyết ,má hồng hồng thu nguyệt tô son ,thanh xuân vừa độ trăng tròn được bậc thần nữ phong cô nhan sắc vẻ khuynh thành,có hương xông gấm vóc áo quần ,lại đàn hát cũng hay nên được Đức Vương Mẫu có lòng quảng đại phong là Công Chúa Ba Bông hay Công Chúa Thủy Cung ,cùng quan sứ giả chọn ngày lành để giáng hiện thần tôn thành cô thiếu nữ đất Hàn Sơn .Câu chuyện về cô Bơ Bông như sau: Cô giáng trần ,khi Mẫu đang ngự trên long sàng , phút mộng thần chiêm bao thấy Cô Bơ dâng hạt châu trước long sàng , sau này vào ngày cô giáng sinh thì trên trời nổi áng mây xanh ,Thủy Cung nhã nhạc tập tành để cô Ba Nàng giáng sinh , thì Mẫu trông thấy cô nhan sắc giống như trong giấc điệp trước đây , sau này cô có công trong việc phù Lê dẹp Mạc , triều đình hứa sẽ phong công nhưng cô cứ đợi chờ như hoa đào còn đợi gió đông nhưng không kịp, đã đến ngày định nhật chí kì , Vua Thủy Tề đã cho xe loan đón rước cô về Thoải Cung ,thế là cô đã ko đợi được người quân tử để trao mối duyên hồng .Theo tương truyền ,cô Bơ còn là người bẻ lái con thuyền hạnh phúc ,đưa người thoát ách cơ hàn , chở người qua bến lầm than đọa đày ,non xuân sắc cũng một tay cô tô vẽ thành như nét thần tiên ,cô về làm hoa nở hây hây , cô đi làm cho ngọn cỏ cành cây thẫn thờ .Cô là người thông tri dưới bể trên trời ,bắt đồng không kể trẻ già ,ai muốn khẩn cầu đều dâng cô nón trắng hài cườm .Khi cô ngự đồng mặc áo trắng pha màu tuyết , đầu đội khăn đóng ,vấn khăn ngang ba màu ,tay cầm đôi mái chèo ,chèo từ bến Cô Tô có Đền Hàn Sơn rồi vân du khắp nơi ,khi đến bản đền cô sai thị nữ bắc cầu thoi để rước cô vào ,khi chèo thuyền nơi ghềnh đá cheo leo , nơi phong ba bão táp cô khoác chiếc áo choàng trắng mỏng tung bay trong ngọn nam phong , cũng có khi cô cầm dải lụa đi đo đất đo mây .Đền thờ cô là Đền Cô Ba Bông hay đền Cô Bơ Bông ở Hà Trung ,Thanh Hóa ,ngay cửa sông ,con đường vào rất khó khăn , mở hội ngày 12/6 ÂL
4.Cô Tư Ỷ La : Có người nói cô Tư làTiên Nữ theo hầu Chầu Đệ Tứ Khâm Sai nhưng theo tài liệu cổ chính xác nhất thì cô Tư theo hầu Mẫu Thượng , cô xinh đẹp dịu dàng , được Mẫu hết mực yêu quý , khi thanh nhàn cô thường dạo chơi cảnh Tây Hồ với chiếc áo lụa vàng tha thướt thêu hoa lá . Cô được thờ trên đền Ỷ La , Tuyên Quang .
5.Cô Năm Suối Lân: Cô là Tiên Nàng người dân tộc theo hầu cận Chầu Năm Suối Lân , cô ở trên Thượng Ngàn , có tính đành hanh , ai mà phạm lỗi thì cô phạt có khi là dở khóc dở cười , có khi cô cho đi lạc trong rừng , ai biết tâm thành lễ bái , cô ban tài tiếp lộc Sơn Lâm Sơn Trang , cô là người cai quản con Suối Lân , bốn mùa xanh ngắt , nhưng ai ko biết mà xuống tắm sẽ bị cô phạt cho sốt nóng mê sảng .Khi ngự đồng cô hay mặc áo xanh hoặc áo lam , đầu vấn khăn hình củ ấu và tay cầm đôi mồi lửa .Đền cô là ngôi đền nhỏ cạnh đền Chầu Năm ,bên bờ sông Hóa
6.Cô Sáu Sơn Trang : Cô là Tiên Nàng hầu cận sát bên Mẫu Thượng Trang Châu , cũng có nơi nói cô là người kề cận Chầu Lục Cung Nương và gọi cô là Cô Sáu Lục Cung , nhưng mọi tài liệu đêù thống nhất cô Sáu là người có tài bốc thuốc cứu người , khi cô lên ngàn hái thuốc thì cầm thú reo ca , voi quỳ hổ phục bên đường cô đi , cô rất khôn ngoan nhưng cũng rất đành hanh , cô đặc biệt ghét người ăn nói quanh co , ăn không nói có .Khigiáng đồng cô mặc quả áo lam ngắn vạt dài tay , chít khăn xanh , trâm cài lược dắt , tay cầm bó mồi
7.Cô Bảy Kim Giao :Cô theo hầu Chầu Bảy Kim Giao trên đất Thanh Liên , Mỏ Bạch , Thái Nguyên , cũng là người dân tộc Mọi , cô hiển ứng , đêm đêm mắc võng đào cùng các bạn tiên ngôi hòa ca .Khi về đồng cô mặc áo lụa tím .
8.Cô Tám Đồi Chè : Cô Tám ko phải là người theo hầu Chầu Tám Bát Nàn , mà cô có tích sử riêng, cô là người thiếu nữ hái chè đất Hà Trung , cũng một lòng giúp vua , tuy sau này chưa được đền đáp nhưng cô cũng được dân lập đền thờ là đền Phong Mục , Hà Trung , Thanh Hóa , chỉ cách đền cô Bơ Bông có một con sông.Khi ngự đồng cô mặc áo xanh quầy ( váy ) xanh ,đầu kết khăn xanh , cô múa mồi rồi múa dáng điệu hái chè
9.Cô Chín Sòng Sơn :Còn gọi là cô Chín Giếng , một tiên cô tài phép , theo hầu Mẫu Sòng , lại có tài xem bói,1000 quẻ cô bói ra thì ko sai một quẻ nào,Cô có phép thần thông quảng đại , ai mà phạm tội cô về tâu với Thiên Đình cho thu giam hồn phách , rồi cô hành cho dở điên dở dại , sau Vua truyền dân lập đền cô ở xứ Thanh , ngay trước đền là chín chiếc giếng tự nhiên do cô cai quản .Còn có truyền thuyết về cô : Cô là Tiên Nữ hầu Mẫu trong đền Sòng , quản cai chín giếng , cô dạo chơi bốn phương khắp ngả trời Nam , sau về đến đất Thanh Hóa cảnh lạ vô biên , cô hài lòng liền hội họp thần nữ năm ba bạn cát , lấy gỗ cây sung làm nhà ,còn cây si thì cô mắc võng , nhân dân cầu đảo linh ứng liền lập đền thờ là Đền Cô Chín ở Thanh Hóa , cách đền Sòng Sơn khoảng 30km.Khi ngự đồng cô mặc áo hồng phơn phớt màu đào phai , có khi cô máu quạt tiến Mẫu , múa cờ tiến Vua , cũng có khi cô thêu hoa dệt lụa , rồi lại múa cánh tiên .Ai cầu đảo cô đều sắm sửa lễ vật : Nón đỏ hài hoa vòng hồng để dâng cô đều được cô chứng minh .Ở một số địa phương đêỳ thờ cô và tôn với các danh khác như Cô Chín Rồng , Cô Chín Suối nhưng chính đều là Cô Chín Sòng được thờ phụng
9*.Cô Chín Tít Mù : Khác với Cô Chín Giếng ở đồng bằng , cô Chín Tít Mù ở trên Thượng Ngàn , có tài trị bệnh bằng nước suối , tuy nhiên rất ít người hầu về giá này , Đền cô lập ở trên đường lên Chầu Mười Mỏ Ba , ngôi miếu nhỏ có suối nước thiêng , ai kêu cầu cô về in bóng trên nước suối đầu quấn khăn tía , có người dâng cô nón đỏ có người dâng nón xanhđể xin thuốcchữa bách bệnh
10.Cô Mười Mỏ Ba:Cô theo hầu Chầu Mười Mỏ Ba , giúp vua đánh giặc Ngô ,khi ngự về cô mặc áo vàng cầm cung kiếm cưỡi trên mình ngựa theo chầu bà xông pha trận mạc , sau này cô cũng được thờ tại đền Chầu Mười
11.Cô Bé Thượng Ngàn :Cũng như Chầu Bé , các vị cô bé đều là những bộ nàng trên Tòa Sơn Trang , hầu Mẫu Thượng Ngàn ,có rất nhiều cô bé trên khắp các cửa rừng lớn nhỏ , các cô về mặc quần áo thổ cẩm ,chân quấn xà cạp , đeo kiềng bạc, tay cầm ô ,vai đeo gùi .Các cô bé gồm:
a,Cô Bé Thượng Ngàn ( Thị Xã Lạng Sơn )
b,Cô Bé Suối Ngang ( Hữu Lũng)
c,Cô Bé Đèo Kẻng ( Thất Khê )
d,Cô Bé Đông Cuông ( Yên Bái )
e,Cô Bé Tân An( Lào Cai )
f,Cô Bé Cây Xanh ( Bắc Giang )
g,Cô Bé Nguyệt Hồ ( Bắc Giang )
h,Cô Bé Minh Lương ( Tuyên Quang)
i,Cô Bé Cây Xanh (Tuyên Quang)
k,Cô Bé Thác Bờ ( Hòa Bình )
12.Cô Bé Thoải Phủ : Cô Bé ngự dưới tòa Thoải Phủ , chỉ tráng bóng chứ ko mở khăn , đứng hàng 12 trong các cô
VIII.Tứ Phủ Thánh Cậu
Là các vị cậu chết trẻ , tinh nghịch ,thường phù hộ cho các gai đình buôn bán cũng như những người muốn cầu học hành .Tứ Phủ Thánh Cậu gồm :
1. Cậu Hoàng Cả
2. Cậu Hoàng Đôi
3. Cậu Hoàng Bơ
4. Cậu Bé
a, Cậu Bé Đồi Ngang ( Cậu Hoàng Quận )
b, Cậu Bé Đồi Non
Ngoài ra ở mỗi bản đền lại có một cậu bé coi giữ gọi là cậu bé bản đền , trong đó thường hay ngự đồng như : Cậu Bé Phủ Bóng , Cậu Bé Đông Cuông ....
Các cậu về thương mặc áo cánh các màu ứng với mỗi giá , đầu vấn khăn , hai bên tay thường có hoa cài , chân quấn xà cạp , đi giày thêu .Các cậu về thường làm lễ tấu rồi đi hèo hoặc múa lân

Công Đồng Tứ Phủ văn

Viêt Nam thuở điện an vương thất
Chuyển pháp luân Phật nhật tăng huy
Kim niên, kim nguyệt, nhật thì.
Đệ tử dâng quy Phật thánh mười phương

Nức khói hương chiên đàn giải thoát
Thoảng mùi hoa ưu bát thơm bay
Nam Mô Phật ngự phương tây
Sen vàng chói lọi hiện ngay Di Đà

Ngự trước tòa lưu ly bảo Điện
Phật Thích Ca ứng hiện tự nhiên
Tiêu thiều nhã nhạc dưới trên
Cửu Long phúc thủy quần tiên của đàn

Đức Từ thị ngại vàng rờ rỡ
Phóng hào quang rực rỡ văn yên
Quan Âm ngự trước án tiền
Tả hữu Bồ tát Tăng thiền, già na

Đức Hộ Pháp Vi Đà thiên tướng
Vận thần thông vô lượng vô biên.

Tận hư không giới thánh hiền
Dục giới sắc giới chư thiên đều mời
Vua Đế Thích Quản cai thiên Chủ
Vua Ngọc Hoàng thiên Phủ chí tôn

Dương phủ ngũ nhạc thần vương
Địa phủ thập điện diêm vương các tòa
Dưới thoải phủ giang hà ngoại hải
Chốn Động Đình bát hải long vương

Tam nguyên, tam phẩm tam quan
Chử Đồng Tử Đại thiên vương cầm quyền
Ngôi Bắc cực trung thiên tinh chúa
Tả nam tào chữa sổ trường sinh

Hữu quan bắc đẩu thiên đình
Thập nhị bát tú cửu tinh huy hoàng
Khắp tam giới bách quan văn võ
Hội công đồng tứ phủ vạn linh


Cửu trùng thánh mẫu thiên đình
Bản thiên Công chúa quế quỳnh đôi bên
Hội bàn tiên khăn điều áo thắm
Chốn Quảng Hàn cung cấm vào ra

Cờn Môn tứ vị vua bà
Công Đồng thánh mẫu tam tòa chúa tiên
Đền Sòng Sơn -Địa Tiên Vương Mẫu
Đất phủ Giày nổi dấu thiên hương

Thỉnh mời tiên thánh Đệ Tam
Xích Lân Long Nữ ngự đền Thủy Cung
Tướng uy hùng năm quan hoàng tử
Lĩnh sắc rồng cai ngự bốn phương

Quyền cai sơn thoải đại giang
Đông Cuông Tuần Quán thượng ngàn tối linh
Khắp tam giới đình thần tứ phủ
Hội Công Đồng văn võ bá quan

Tả mời Thái Tuế Dương Niên
Hữu Quan Dương Cảnh Thành Hoàng quản coi
Tiền hậu lai Lê Triều Thái Tổ
Quản chư thần thừa trị hôm mai

Thỉnh mời Tứ Phủ Khâm Sai
Thủ Đền Công Chúa đáng tài thần thông
Thỉnh tam thập lục cung tiên thần nữ
Lệ tùy hầu thừa sự sớm trưa

Pháp vân Pháp vũ uy nghi
Pháp lôi Pháp điện hộ trì bốn phương
Tướng thiên cung mũ đồng áo sắt
Lốt thủy tề năm sắc phi phương

Thỉnh mời bát lộ sơn trang
Bên thời thập nhị tiên nương chầu vào
Các bá quan cơ nào đội ấy
giáng bản đền lừng lẫy uy nghi

Thổ Công Thổ Địa thần kỳ
Ngoại Giang hà Bá sơn kỳ thần linh
Sắc cẩn thỉnh thiên binh lưc sĩ
Ngũ Hổ thần vạn vị hùng binh

Thỉnh mời liệt vị bách linh
Binh tùy binh bộ cùng binh bản đền
Phép tự nhiên thiên trù tống thực
Thập biến thiên vạn ức hà sa

Nam mô tát phạ đát tha nga đa phạ rô chỉ đế. (*)
Án, tam bạt ra, tam bạt ra hồng

án tông tông tông tông tông thủy luân nhũ hải
Biển trần trần sái sái giai trung
Nhất nghị lục cúng viên thông
Ân cần phụng hiến công đồng như lai

Nguyệt vân lai cầu an bảo tọa
Đại từ bi hỷ xả chi tâm
Cứ trong một tháng đôi tuần
Dâng hoa cúng quả trầu trăm tuổi già


Hội tam đa , trình tương ngũ phúc
Độ cho đồng hưởng lộc trường sinh
Thỉnh mời Phật giáng lưu ân
Thần giáng lưu phúc thiên xuân thọ trường

bổ sung về quan tam phủ,và các thánh thờ tại Đền Lảnh Giang&Xích Đằng HY:

Theo thần phả tại Lảnh Giang Linh từ:

Ngày xưa(vào thời vua hùng thứ 18), ở trang An Cố huyện Thuỵ Anh - phủ Thái Ninh - trấn Sơn Nam, có vợ chồng ông Phạm Túc ăn ở phúc đức, chỉ hiềm một nỗi ông bà đã cao tuổi mà vẫn chưa sinh được mụn con nối dõi.

Một đêm trăng thanh, gió mát, vợ ông (bà Trần Thị Ngoạn) đang dạo chơi, bỗng gặp một người con gái nhà nghèo, cha mẹ mất sớm, không có anh em thân thích, đi tha phương cầu thực. Động lòng trắc ẩn, bà Ngoạn liền đón cô gái về làm con và đặt tên là Quý. Ông bà coi nàng Quý như con ruột của mình. Vài năm sau, trong lúc gia đình đang vui vầy, đột nhiên ông Túc mắc bệnh rồi qua đời. Hai mẹ con đã tìm nơi đất tốt để an táng cho ông.

Sau ba năm để tang cha, một hôm nàng Quý ra bờ sông tắm gội, đang lúc ngâm mình dưới nước, bỗng mặt nước nổi sóng, từ phía xa một con thuồng luồng khổng lồ bơi tới quấn ba vòng quanh mình nàng, khiến nàng kinh hoàng mà ngất lịm, lúc sau thuồng luồng bỏ đi. Từ hôm đó, nàng thấy trong lòng chuyển động và mang thai. Không chịu được những lời dèm pha, khinh thị, nàng đành phải trốn khỏi làng đến xin ngụ cư ở trang Hoa Giám (nay thuộc thôn Yên Lạc). Thời gian thấm thoát thoi đưa, ngày mùng 10 tháng giêng năm Tân Tỵ, nàng chuyển dạ, sinh ra một cái bọc. Cho là điềm chẳng lành, nàng đem cái bọc quẳng xuống dòng sông. Chiếc bọc trôi theo dòng nước tới trang Đào Động (xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình), mắc phải lưới của ông Nguyễn Minh. Sau nhiều lần gỡ bỏ, nhưng bọc vẫn cứ mắc vào lưới. Ông Minh thấy lạ bèn khấn: “Nếu bọc này quả là linh thiêng thì cho tôi lấy dao rạch thử xem sao”. Khấn xong, ông Minh rạch ra bỗng thấy ba con rắn từ trong chiếc bọc trườn xuống dòng sông. Con thứ nhất theo hướng cửa sông Đào Động, con thứ hai về Thanh Do, con thứ ba về trang Hoa Giám (nơi nàng Quý đang sống). Nhân dân các trang ấp ở đay thấy đều sợ hãi, cùng nhau ra bờ sông tế tụng, xin được lập sinh từ để thờ.

Lạ thay, vào một đêm trăng sáng, trời bỗng nổi giông, ngoài cửa sông sấm sét nổi lên dữ dội. Đến gần sáng, gió mưa ngớt dần, mọi người đều nghe thấy dưới dòng sông có người ngâm vịnh:

"Sinh là tướng, hoá là thần,
Tiếng thơm còn ở lòng dân muôn đời.
Khi nào giặc dã khắp nơi,
Bọn ta mới trở thành người thế gian."

Bấy giờ Thục Phán thuộc dòng dõi tôn thất vua Hùng thấy Duệ Vương tuổi đã cao mà không có con trai, nên có ý định cướp ngôi. Thục Phán cầu viện binh phương Bắc, chia quân làm 5 đường thủy bộ cùng một lúc đánh vào kinh đô. Duệ Vương cho gọi tướng sĩ lập đàn cầu đảo giữa trời đất. Đêm ấy, nhà vua chiêm bao thấy có người sứ giả mặc áo xanh từ trên trời bước xuống sân rồng, truyền rằng: “Nhà vua nên triệu ba vị thủy thần sinhở đạo Sơn Nam, hiện còn là hình con rắn thì tất sẽ dẹp xong được giặc”. Tỉng dậy, Duệ Vương liền sai sứ giả theo đường chỉ dẫn trong giấc mộng tìm về đạo Sơn Nam. Sứ giả vừa đến trang ĐÀo Động, bỗng nhiên trời đổ mưa to, sấm sét nổi lên dữ dội ở cửa sông. Một người mặt rồng, hình cá chép, cao tám thước đứng trước sứ giả xưng tên là Vĩnh, xin được đi dẹp giặc. Sau đó ông Vĩnh gọi hai em đến bái biệt thân mẫu rồi cùng nhau đến yết kiến vua Duệ Vương. Vua Hùng Liền phong cho ông là Trấn Tây, giữ các vùng Sơn Nam, Ái Châu, Hoan Châu. Hai em và các tướng hợp lại dưới sự chỉ huy của ông, năm đạo quân Thục đều bị tiêu diệt.

Nghe tin thắng trận, Duệ Vương liền truyền lệnh giết trâu, mổ bò khao thưởng quân sĩ. Vì có công lớn, nhà vua phong ông là Nhạc Phủ Ngư Thượng Đẳng Thần, nhưng ông không nhận, chỉ xin cho dân Đào Động hàng năm không phải chịu sưu dịch. Được vua đồng ý, ông Vĩnh cùng hai em về quê bái yết thân mẫu và khao thưởng gia thần, dân chúng. Thấy ở bên sông có khu đất tốt, ông Vĩnh cho lập đồn dinh cư trú, khuyến khích nông trang, khuyên mọi người làm việc thiện lương. Nhờ công đức của ông mà nhân dân khắp vùng được sống yên vui.

Ngày 25 tháng 8 năm Bính Dần, trong lúc ông đang ngự tại cung thất của mình, bỗng dưng giữa ban ngày trời đất tối sầm, mưa gió ầm ào đổ xuống. Khi trời quang mây tạnh, dân làng không còn nhìn thấy ông đâu nữa. Cho là điều kỳ lạ, nhân dân trang Đào Động làm biểu tâu với triều đình. Được tin ông Phạm Vĩnh về trời, nhà vua liền gia phong cho ông là Trấn Tây An Tam Kỳ Linh Ứng Thái Thượng Đẳng Thần, đồng thời đặt lệ, ban sắc chỉ cùng tiền cho dân Đào Động rước thần hiệu, tu sửa đền miếu phụng thờ.

Các triều đại sau đó đều có sắc phong cho ông, tất cả 12 sắc. Sắc sớm nhất là đời Lê Cảnh Hưng, sắc muộn nhất vào triều Nguyễn, niên hiệu Duy Tân thứ 7 (1913).

Cùng trên mảnh đất thiêng này có câu chuyện về mối tình Tiên Dung, Chử Đồng Tử từ ngàn xưa còn vọng đến hôm nay. Thủa ấy, ở thôn Đằng Châu có một nhà nghèo gặp cơn hỏa hoạn. Hai cha con chỉ còn một manh khố ngắn dùng chung để khi có việc ra ngoài. Lúc người cha qua đời, Chử Đồng Tử đã dành chiếc khố cuối cùng khâm liệm cha. Từ đó ngày ngày chàng thường phải ngâm mình dưới nước.

Một hôm, Tiên Dung con gái vua Hùng đi du ngoạn, cảm nhận cảnh sông nước nên thơ, công chúa cho dừng thuyền lại bên bãi cát. Chử Đồng Tử đang mò cá dưới sông, nhìn thấy thuyền rồng, cờ rong lọng tía mà kinh sợ, vội vàng vùi mình dưới cát. Ngay lúc đó Tiên Dung sai các thị nữ quây màn để tắm đúng vào nơi mà Chử Đồng Tử ẩn nấp. Nước xối từ trên người nàng, trôi dần cát ở dưới chân, lộ Chử Đồng Tử trong màn quây. Sau giây phút ngỡ ngàng, cả hai người cho là duyên trời đã định, cùng nhau về triều xin phép vua cha cho kết duyên thành vợ chồng. Chử Đồng Tử, Tiên Dung đã về trời nhưng tình yêu, lòng hiếu thảo còn ở lại mãi với trần gian.

Trần Danh Lâm (1705-1777) khi về thăm Lảnh Giang đã có bài thơ:

"Con gái vua Hùng, tướng vua Hùng,
Đền này truyền việc lại nhà thờ chung.
Sự nghiệp nhân duyên thì rất đẹp,
Tình đời chẳng đẹp đáng thau không."[b]
Các bài viết khác
  Đạo mẫu ở Việt Nam (27/01/2013)
  Đạo Mẫu Việt Nam (22/06/2011)