Chương 1
Tầm quan trọng của Thiên văn học Trung Hoa
Thiên văn đối với Trung Hoa xưa có một tầm mức hết sức quan trọng. Thiên văn quan trọng vì có nhiều lý do. Những lý do ấy sẽ được lần lượt trình bày trong chương này.
I. ĐIỀM TRỜI LÀ CÁCH THỨC THƯỢNG ĐẾ DÙNG ĐỂ CHỈ DẠY VUA CHÚA
Trung Hoa là một dân tộc thực ra hết sức đạo hạnh. Họ tin rằng Thượng Đế luôn luôn tha thiết đến chúng dân nơi trần gian này.
Thượng Đế có một phương cách đặc biệt để chỉ dạy cho chúng dân, chỉ dạy cho vua chúa xem đã đi đúng hay đi sai lề luật của trời đất, đó là dùng điềm trời.
Vì thế Kinh Dịch mới nói: «Thiên thùy tượng, thánh nhân tắc chi.» 天 垂 象 聖 人 則 之 (Trời cho thấy những điềm, những tượng; thánh nhân theo đó mà bắt chước.)
Đối với thiên văn thì tượng là: Nhật, nguyệt, tinh, thần, phong, lôi, vân, vũ. Vì thế mà người xưa hết sức lưu ý đến các biến tượng nơi nhật, nguyệt, tinh, thần; hết sức chú trọng đến các tường vân thụy khí, yêu tinh, yêu khí, để đoán biết ý Thượng Đế, đoán biết cát hung, cũng như sự hưng suy của các triều đại.
Tấn thư - thiên văn chí chép:
Đời Minh Đế, năm Thái Hòa nguyên niên (323), quan thái sử lệnh là Hứa Chí tâu rằng: «Sắp có nhật thực.» Xin được cùng với quan thái úy đi làm lễ nhương sao.
Vua phán: «Ta nghe rằng nếu chính trị của loài người mà không hẳn hoi, thời Trời lấy những điềm tai dị mà đe dọa để khuyến cáo. Khuyến cáo cốt để cho họ sửa mình. Cho nên nhật nguyệt che khuất lẫn nhau để tỏ rõ rằng phép cai trị có điều chẳng phải.
«Trẫm từ khi tức vị đến nay không làm rạng sáng được thánh đức của các bậc tiên đế, và cách thi nhân giáo hóa có điều không hợp với Hoàng Thần (Hoàng Thiên), vì thế nên Trời cao muốn thức tỉnh để trẫm sửa đổi lại nền hành chánh, tu tỉnh lại hạnh kiểm ngõ hầu báo đáp thần minh.
«Trời đối với người y như cha đối với con. Chưa có cha nào muốn khiển trách con, mà con có thể làm bữa cơm thịnh soạn dâng lên, xin tha lỗi được.
«Nay hình hạc bề ngoài sai quan thượng công và quan thái sử lệnh cùng đi làm lễ nhương sao, thì lẽ ấy chưa từng nghe thấy vậy.
«Quần công, khanh sĩ, đại phu phải cố gắng làm chu toàn phận vụ để bồi bổ những chỗ trẫm còn khuy khuyết. Bèn phong thưởng tất cả.»
Trung Dung viết: «Quốc gia tương hưng tất hữu trinh, tường; quốc gia tương vong tất hữu yêu nghiệt.» 國 家 將 興 必 有 禎 祥 ; 國 家 將 亡 必 有 妖 孽 (Khi nước sắp hưng thịnh, sẽ thấy những điềm lành; khi nước sắp nguy vong, sẽ thấy những điềm gở.)
Đời U Vương (781-770), một hôn quân đời Tây Chu say mê Bao Tự. Bè đảng Bao Tự do đó lộng hành làm cho lê dân cùng khốn. Trời đất liền cho thấy những điềm hung họa như muốn báo trước một sự suy vong. Kinh Thi đã ghi chép trong bài thơ Thập nguyệt chi giao, thiên Tiểu nhã:
- Nhật thực vào ngày Tân Mão, mồng 1 tháng 10, năm thứ 6 đời U Vương (775).
- Sự lũng đoạn về chính trị xã hội do các gian thần thuộc phe Bao Tự gây ra.
- Những cảnh sơn băng địa liệt, v.v.
Trong kinh Xuân Thu, đức Khổng Tử đã ghi chép tất cả:
- 36 lần nhật thực.
- 4 lần sao chổi hiện (năm 612, 524, 515, 482).
- Một lần vẫn thạch (năm 643).
Mỗi lần gặp những thiên biến như vậy, nhà vua cùng quần thần cùng bàn cãi với nhau xem họa hung sẽ ra sao. Xuân Thu chép:
«Mùa thu, tháng 7 (đời Văn Công thứ 14, tức 612 tcn) có sao chổi hiện ra ở chòm sao Bắc Đẩu.
«Nội sử nhà Châu là Thúc Phục đoán rằng: Trong vòng 7 năm nữa, các vua nước Tống, nước Tề, nước Tấn đều bị chết vì loạn lạc…
«Mỗi khi có nhật thực vua thường ăn bớt bát để tỏ lòng hối hận, lại sai vua chư hầu dâng lễ vật ở đền Xã để tỏ lòng tôn kính thần minh. Vua chư hầu đánh trống ở triều đình mình như muốn nhắc dân phải hết lòng phụng sự quốc quân.»
Đó cũng là dịp để vua chúa kiểm điểm lại hành vi của mình.
Truyện Phi Long diễn nghĩa chép: «Năm Hiển Đức thứ 2 (955), ngày mồng 1 tháng giêng có nhật thực. Vua Thế Tôn thấy vậy bèn hạ chỉ cho các quan trong triều ngoài quận, ai thấy có điều chi lợi hại thì phải lấy lời trực ngôn mà tâu, và ai thấy sự chi có ích chung cho thiên hạ thì cũng dâng biểu về triều tâu cho vua xem.»
Ghi chú: Đây vốn là loạt bài đã đăng tạp chí Phương Đông, các số 1 (tháng 7-1971), 2 (8-1971), 3 (9-1971), 4 (10-1971), 5 (11-1971), 6 (12-1971), 11 (5-1972), 15 (9-1972), 16 (10-1972), 22 (4-1973), 26 (8-1973), 27 (9-1973), 29 (11-1973), 33 (3-1974), 37 (7-1974), 42 (12-1974), 43 (1-1975).