Chu dịch, khả năng phát hiện của chu dịch, phần 1

Ngôn ngữ Chu Dịch được sử dụng là 64 thoán từ và 386 hào từ nguyên gốc. Ngôn từ nguyên gốc mang đậm nét cổ, trừu tượng và đầy tính ẩn dụ. Tôn trọng nguyên bản, tôi vẫn sử dụng những ngôn từ này.

Khi diễn giải, bên cạnh ngôn từ nguyên gốc tôi có sử dụng những cụm từ với nghĩa tương đương. Những cụm từ tương đương không thể dùng thay thế ngôn từ nguyên bản. Nó chỉ nhằm mục đích làm cho phần diễn giải dễ đọc và dễ hiểu hơn.

Ngoài những hiện tượng đã được khoa học công nhận, tôi dùng Chu Dịch đề cập đến những vấn đề, những điều mà khoa học ngày nay chưa có lời giải đáp…. Phương thức đề cập tuy khá lạ so với tri thức khoa học chính thống, nhưng với các bạn đọc đã từng học qua hoặc có nghiên cứu Đông Y, tôi nghĩ rằng sẽ dễ dàng tiếp cận phương pháp luận lạ lùng nhưng hoàn toàn hợp lý này.

Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.

KHẢ NĂNG PHÁT HIỆN CỦA CHU DỊCH

1. CHU DỊCH VỚI NỀN VĂN MINH TRUNG HOA CỔ ĐẠI
2. CHU DỊCH VỚI CHU DỊCH DỰ ĐOÁN HỌC
3. CHU DỊCH VỚI KHOA THIÊN VĂN
4. CHU DỊCH VỚI CƠ ĐỐC GIÁO
5. CHU DỊCH VỚI PHẬT GIÁO
6. CHU DỊCH VỚI ĐẤNG TỐI CAO
7. CHU DỊCH VỚI THỂ THAO
8. CHU DỊCH VỚI KỸ THUẬT NHÂN BẢN CON NGƯỜI
9. CHU DỊCH VỚI NGÔN NGỮ, CHỮ VIẾT
10. CHU DỊCH VỚI CHIẾN LƯỢC KINH DOANH
11. CHU DỊCH VỚI KHẢ NĂNG NGOẠI CẢM (1)
(Sự Hiện Hữu Của Ba Giác Quan Thứ 6, 7 & 8)
12. CHU DỊCH VỚI KHẢ NĂNG NGOẠI CẢM (2)
(Chức Năng & Vị Trí Thụ Cảm Của Giác Quan 6, 7, 8)
13. CHU DỊCH VỚI ĐẠI DỊCH AIDS
14. CHU DỊCH VỚI KHẢ NĂNG NGOẠI CẢM (3)
(Sự Hiện Hữu Của Hệ Không - Thời Gian Khác)
15. CHU DỊCH VỚI NĂNG LƯỢNG TỐI
16. CHU DỊCH VỚI THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
17. CHU DỊCH VỚI HÀNH VI DÂN TỘC
18. CHU DỊCH VỚI SỰ VẬN ĐỘNG QUỐC GIA
19. CHU DỊCH VỚI THƯƠNG MẠI
20. CÁC CÂU HỎI CHƯA CÓ LỜI GIẢI

Chu Dịch Với
Nền Văn Minh Trung Hoa Cổ Đại
* Chu Dịch có ứng dụng đặc thù gì ?
Chu Dịch mang tính năng “Phát Hiện” sự tồn tại của các hiện tượng, sự việc, vật thể. Đi sâu vào bản chất (Sinh lý, sinh học phân tử, nguyên tử, hạt cơ bản) không phải là khả năng của Chu Dịch.

* Chu Dịch được xây dựng trên cơ sở khoa học nào ?
Cơ sở khoa học nêu lên được hiểu là nền tảng khoa học chính thống hiện nay đã và đang tạo ra các thành tựu kỹ thuật mà chúng ta nhìn thấy xung quanh & sống trong nó…. Giới khoa học ngày nay nhận thấy rằng thế giới còn tồn tại những hiện tượng rất khó lý giải. Vì thế, đã chấp nhận cách phân định như sau: Ngành khoa học chính xác (1) và Ngành khoa học chưa thể giải thích, chứng minh bằng các công cụ chính xác (2) Nên khi ứng dụng vào thực tiễn mang lại lượng kết quả đúng đáng kể, thì sẽ được coi là đối tượng nghiên cứu thuộc ngành khoa học thứ hai (2). Chu Dịch là một ví dụ.
Chu Dịch bắt nguồn từ nguyên lý Âm Dương. Nguyên lý này đã không còn bị coi là hoang đường. Nó có một cơ sở hệ thống lý luận riêng, hợp lý, lo-gic không ai phủ nhận được. Tuy vậy, cho đến nay chưa ai lý giải được người xưa đã lý luận như thế nào để tạo nên Chu Dịch.
Để lý giải cách tạo nên Chu Dịch phải làm được 4 điều sau:
Việc thứ nhất: Giải thích được sự hình thành của 2 đồ hình Tiên Thiên & Hậu Thiên Bát Quái.
Việc thứ hai: Giải thích được cách sắp xếp thứ tự của 64 quẻ dịch.
Việc thứ ba: Tìm ra được nguyên tắc cấu tạo nên 386 hào từ.
Việc thứ tư: Nguồn thông tin tạo nên lời của thoán từ và hào từ .
Tất cả 4 việc trên cho đến thời điểm hiện nay vẫn còn là điều bí hiểm chưa giải thích được. Riêng tôi đã thực hiện được hai việc 1 & 3 và sẽ trình bày chúng trong quyển 2 : “Công Bố Cơ Sở Luận Của Chu Dịch”

* Chu Dịch là của ai ?
Các di chỉ khảo cổ học cho biết rằng đồ hình bát quái của Chu Dịch chưa có ở đời nhà Thương (Trước nhà Chu) Các nhà sử học hiện nay thống nhất cho rằng 12 vị vua thời nhà Chu, trùng với thời gian xuất hiện Chu Dịch, chỉ là đặt nền tảng cơ bản cho nền văn minh Trung Hoa sau này. Tính khái quát rất cao trong các lời thoán từ & hào từ khiến người viết có nhận định rằng Chu Dịch không thể là sản phẩm của xã hội mà trình độ khoa học kỹ thuật còn thấp kém cách đây trên 3200 năm. Bởi lẻ, người viết mặc dù đã tìm ra được các nguyên tắc chuẩn hình thành nên 386 hào từ (Việc thứ ba). Nhưng từ nguyên tắc đến việc viết nên lời hào như Chu Dịch là một khoảng cách lớn, rất lớn! Bởi chỉ có nguyên tắc thôi thì không đủ mà cần phải có một lượng tri thức ở trình độ phát triển cao tương ứng mới có thể viết nên Chu Dịch. Nên tôi cho rằng một hay 2 bộ óc siêu việt ở trình độ cách đây 3200 năm không thể làm nổi ! (Các sách hiện nay đều cho rằng hai cha con Chu Văn Vương & Chu Đán đã viết nên bộ sách này).

Quẻ Thuần Khôn có một đoạn mô tả từ Hội Âm (Vùng nằm giữa hậu môn và bộ phận sinh dục) có con đường đi về phía gần cái lưỡi thì ngừng lại. Bên châm cứu Mạch Nhâm, Mạch Đốc xuất phát từ huyệt Hội Âm đi đến huyệt Ngân Giao & Thừa Tương thì ngừng. Nghĩa là cũng chưa đến cái lưỡi! Việc Chu Dịch mô tả chính xác đường đi của hai kinh mạch quan trọng của cơ thể là điều đáng phải đặt câu hỏi: Liệu người Trung Hoa xưa kia đã căn cứ vào Chu Dịch để tìm ra gần 1000 huyệt đạo nằm trên cơ thể con người? Nhìn trên tổng thể Chu Dịch, tôi nhận định rằng không thể có điều này. Đây chỉ là sự trùng hợp tất nhiên của một nền văn minh kỹ thuật thuần nhất, như khi định luật bảo toàn năng lượng bên vật lý cổ điển cũng phù hợp với trên nhiều lãnh vực khoa học khác. Người Trung Hoa đã tìm ra gần 1000 huyệt đạo từ đâu, mà với trình độ khoa học kỹ thuật hiện nay vẫn chưa đủ khả năng tìm ra được ngần ấy huyệt như thế, và khi môn châm cứu cũng được ghi nhận sự ra đời của nó khoảng gần gần với Chu Dịch? Chu Dịch không tạo ra môn châm cứu, vậy thì cái gì đã tạo nên hai quyển sách siêu đẳng này?

64 thoán từ & 386 hào từ được trình bày theo lối tả vật, tả người, tả cảnh. Điều này có nghĩa là:
Hoặc như khi ta nhìn vào các hình vẽ mà mô phỏng chép lại ?
Hoặc người Trung Hoa khái quát các qui luật bằng hình tượng ?
Khả năng thứ hai là không thể có như tôi đã trình bày ở trên. Và một điều quan trọng hơn, bằng việc sử dụng các nguyên tắc cấu tạo hào từ, tôi đã tìm ra một số điểm còn thiếu & sai của nguyên bản Chu Dịch . Những điểm thiếu & sai này xem ra là “Bất Cẩn” nếu đem so với khả năng và trình độ của người viết nên bộ Chu Dịch (Xem Chu Dịch Diễn Giải)
Như vậy, sẽ là hợp lý hơn khi cho rằng Chu Dịch là bản chép lại từ một bản khác. Tức là Chu Dịch là tác phẩm có xuất xứ từ một nền văn minh khoa học đã phát triển cao.

* Chu Dịch trình bày một hệ thống triết học !
Điều đáng kinh ngạc là Chu Dịch không đơn thuần trình bày 64 Hình Thái Vận Động của vũ trụ, mà nó còn trình bày một hệ thống triết học. Hệ thống triết học ấy đã tạo dựng nên một nền văn minh Văn hoá - Kỹ Thuật Trung Hoa Cổ cực thịnh. Nền văn minh Cổ ấy vẫn tiếp tục tác động đến xã hội Trung Hoa đương đại theo cái cách xuyên suốt không đứt đoạn, một nền văn minh cổ duy nhất trên thế giới còn tồn tại cho đến ngày hôm nay.

Nếu chúng ta chỉ nhìn vào quá khứ của nền văn minh Trung Hoa Cổ ấy mà cho rằng Chu Dịch là tác phẩm cổ là một điều không công tâm ! Bởi nó nhìn thấy những điều mà cho đến ngày hôm nay chúng ta mới thấy, và nó đã trông thấy những điều ngày hôm nay chúng ta vẫn chưa rõ, vậy thì phải nhìn nó như một sản phẩm của một nền văn minh khoa học kỹ thuật đã phát triển cao hơn chúng ta hiện nay, mà người Trung Hoa xưa được thừa hưởng.


Chu Dịch với
Môn Học Chu Dịch Dự Đoán
Người có công đầu chuyên biệt hoá khả năng dự đoán của Chu Dịch, giúp Chu Dịch áp dụng vào công việc dự đoán trong thực tiễn dễ dàng hơn, đó là nhà Triết học Thiệu Khang Tiết (Thiệu Ung) đời nhà Tống. Ông đã đưa Hệ thống Thiên Can Địa Chi và mã hoá chúng thành các con số nhằm xác định thời điểm vận hành của các qui luật. Từ đó hình thành nên môn học Chu Dịch Dự Đoán. Tuy nhiên, ông đã không để lại tiến trình diễn giải vì sao ông tạo nên được các qui tắc, phương pháp dự đoán như thế.
(Hệ thống Thiên Can Địa Chi nằm trong Hệ Lịch Cổ Trung Hoa. Hệ Lịch này lấy Mặt Trăng làm điểm qui chiếu. Ta thường gọi là Âm lịch)
Chu Dịch & Chu Dịch Dự Đoán Học liên hệ thế nào ?
Trong lãnh vực dự đoán, mối liên hệ giữa chúng như sau :
(Tôi mượn một số thuật ngữ bên Tin Học để mô tả mối liên hệ này)
Chu Dịch là Ngôn Ngữ Dự Đoán Bậc Thấp.
Chu Dịch Dự Đoán là Ngôn Ngữ Dự Đoán Bậc Cao.
Bậc Thấp & Bậc Cao diễn tả quan hệ cái trước là cái nền của cái sau.

* Ngôn Ngữ Dự Đoán Bậc Thấp: là cái nền, được sử dụng đề dự đoán các sự vật & hiện tượng trong một Không Gian & Thời Gian không xác định.
Ví dụ : Khi Hitler đưa ra chủ thuyết Dân Tộc Thượng Đẳng. Căn cứ vào hình thái Phong Thuỷ Hoán, chúng ta có thể xác quyết được rằng: nhà độc tài này có ý muốn thống trị thế giới, sẽ có những hành động cực đoan với các dân tộc khác, sẽ lôi kéo cả dân tộc chuẩn bị lực lượng cho một cuộc chiến tranh tổng lực. Căn cứ vào sự vận hành của hình thái Phong Thuỷ Hoán, chúng ta có thể dự đoán được hậu quả của cuộc chiến, và cái kết của cuộc chiến tranh ấy.

* Ngôn Ngữ Dự Đoán Bậc Cao: là ngôn ngữ dự đoán đã được chuyên biệt hoá, được sử dụng để dự đoán các sự vật & hiện tượng trong một Không Gian & Thời Gian được xác định.

Ví dụ : Khi xác định được thời điểm Hitler công bố chủ thuyết ấy, ta có thể biết được suy nghĩ, thái độ, hành động & bước đi tiếp theo của ông ta.
Trên thực tế có những người mang khả năng ngoại cảm rất tốt. Họ nhìn thấy các sự kiện đã diễn ra, biết trước diễn tiến sự việc trong tương lai mà bản thân họ không cần phải nhìn thấy trực tiếp. Phải chăng trong vô thức, họ đã nắm được những qui luật bất biến của con người & vũ trụ ? Chúng ta thường gọi những người này là Nhà Ngoại Cảm.
Nhà Ngoại cảm nghe qua sự kiện, có thể đưa ra lời dự đoán.
Nhà Dự Đoán Học Trung Hoa cũng chỉ cần như vậy.
Điều này cho ta nhận xét rằng: Phải chăng Chu Dịch là cấu trúc cơ bản của khả năng ngoại cảm ?

Dự Đoán theo Chu Dịch & dự đoán theo Chu Dịch Dự Đoán Học, tôi gọi là Dự Đoán Học Trung Hoa.


Chu Dịch với Thiên Văn
Theo tính toán của các nhà vật lý thiên văn, mặt trời chúng ta đang ở độ tuổi trung niên. Khi về già, mặt trời sẽ tăng dần thể tích lên cho đến khi nuốt trọn trái đất. Đó là thời điểm đi dần đến sự kết thúc thái dương hệ của chúng ta.
Khi nhìn vào hình thái Thuần Ly (quẻ thứ 30) hình thái Sáng - Lồi, chúng ta có được sự trùng hợp lý thú ! Quẻ 30 mô tả diễn tiến rất đúng trạng thái Mặt trời ở hào thứ 6 _ Nuốt trọn Trái Đất !
Ta hãy xem :

Hào 1 : Dẫm đạp lung tung
Giai đoạn hoạt động ban sơ của Mặt trời
Hào 2 : Sắc vàng phụ vào giữa
Giai đoạn Mặt trời hoạt động mạnh mẽ nhất
Hào 3 : Mặt trời xế chiều gần lặn
Giai đoạn Mặt trời hoạt động đi dần đễn mức tiêu hao hết năng lượng của nó.
Hào 4 : Thình lình chạy tới như muốn đốt người ta vậy
Giai đoạn Mặt trời phình to
Hào 5 : Nước mắt ròng ròng
Sự phình to bắt đầu tác động đến những hành tinh, thiên thể gần nó.
Hào 6 : Giết đầu đãng mà bắt kẻ sống, kẻ khác phải theo mình
Giai đoạn Mặt trời nuốt các hành tinh ở gần nó. Những hành tinh ở xa không bị nuốt, nhưng phải chịu chung số phận trở thành các khối thiên thạch quay quanh ngôi sao lùn (Mặt trời lúc này).

Trong Chu Dịch, đối nghịch với Thuần Ly ta có hình thái Thuần Khảm. Nghĩa là có mặt trời tất phải có một hình thể vật chất mang tính chất & dạng thức vận động ngược lại với mặt trời. Khoa học hiện nay đã xác định được một cấu trúc hoạt động rất đặc biệt tồn tại trong vũ trụ của chúng ta, đó là Lổ Đen. Lổ Đen không phát tán vật chất như mặt trời. Nó hút ánh sáng, hút vật chất. Giả định rằng có những Lỗ Đen tiết diện bằng trái banh nhưng có thể hút được những khối vật thể to như Mặt trời, suy diễn theo lối thông thường thì trọng lượng của Lổ Đen to bằng trái banh ấy phải nặng gấp nhiều lần Mặt trời (!?) Ta hãy xem hình thái Thuần Khảm của Chu Dịch mô tả cái Lổ đen ấy như thế nào:
Hào 1 : Hai lần hiểm, sụp vào hố sâu
Vật chất bị Lổ đen hút vào. Lổ Đen ấy có 2 chỗ hiểm, tức có 2 “Cửa”
Hào 2 : Ở chỗ hiểm lại có hiểm
Khối vật chất bị hút vào. Qua được 1 “Cửa” thì rơi vào sự tác động của cái “Cửa” thứ hai. Tức là, cửa thứ hai nằm bên trong cửa thứ nhất.
Hào 3 : Tới lui đều bị hãm.
Khối vật chất chịu sự tác động giam hãm ở giữa 2 cái “Cửa”
Hào 4 : Như thể chỉ dâng lên 1 chén rượu, 1 quỹ thức ăn thêm 1 vài thứ khác nữa, có thể tuỳ cơ ứng biến, đút khế ước qua cửa sổ.
Khối vật chất xoay vần trong khoảng giữa 2 cái “Cửa” cố thoát ra. Khối vật chất bị biến hình.
Hào 5 : Nước hiểm chưa đầy, nhưng khi đầy rồi thì thoát hiểm.
Không thể thoát được khi Lổ Đen chưa đầy (vật chất) Chỉ khi Lổ Đen hút thêm vật chất, và khả năng chứa của Lổ Đen đã tới giới hạn (đây rồi) thì khối vật chất bị hút trước đó sẽ được Lổ Đen tống ra. Tống ra ở “Cửa” nào ? Lổ Đen vừa hút vừa đẩy 2 khối vật chất khác nhau qua cùng 1 “Cửa” chăng ?
Hào 6 : Đã trói bằng dây thừng to, lại đặt vào bụi gai, 3 năm không ra được.
Hào 6 đã cho chúng ta câu trả lời: Khối vật chất sau khi bị hút vào qua “Cửa” thứ nhất sẽ bị Lổ Đen tống ra bằng “Cửa” thứ hai (Bị nhốt) Đằng sau cánh cửa thứ hai là vũ trụ của chúng ta chăng ? Không phải ! Hào 6 nói rằng khối vật chất ấy bị nhốt chưa ra được. Như vậy, đằng sau cánh cửa thứ hai của Lổ Đen phải là “Một Cái Khác” Cái khác ấy không thể là vũ trụ của chúng ta. Chưa ra được chứ không phải không ra được. Như vậy Lổ đen hoạt động 2 chiều.

Như vậy, hình thái Thuần Khảm của Chu Dịch Trung Hoa đã xác lập rằng ngoài cái vũ trụ của chúng ta còn tồn tại ít nhất 1 vũ trụ khác.
Theo các giả định hiện có, Lổ Đen có dạng hình phểu với 2 miệng phểu ở 2 đầu. Vật chất bị Lổ Đen hút vào miệng phểu bên này và bị tống ra qua miệng phểu bên kia. Ở miệng phểu bên kia, các nhà khoa học cho rằng đó là 1 vũ trụ khác.
Lưu ý : Ngôn từ sử dụng trong các lời hào của Chu Dịch chỉ là công cụ dùng để mô tả các hình thái & qui luật vận động.

Chu Dịch Với Cơ Đốc Giáo
Chu Dịch ra đời trước sự kiện Jesus xuất hiện được ghi trong Tân Ước khoảng hơn 1000 năm. Với khoảng cách thời gian như thế ta có thể chấp nhận tính khách quan của Chu Dịch với Đạo Giáo Cơ Đốc. Chu Dịch nói gì về câu chuyện Jesus ? Tinh thần Bác Ái của Cơ Đốc Giáo nằm trong hình thái nào của Chu Dịch ? Hình thái ấy nói gì ?

Chu Dịch nói gì về Jesus ?

Theo Tân Ước, Jesus đi truyền đạo không câu nệ phân biệt người giàu kẻ khó. Ngài tiếp xúc với tất cả loại người, gần gũi va chạm không e ngại cả những kẻ tật nguyền cùi hủi. Cách Ngài thể hiện với mọi người tương ứng với hình thái Thuỷ Địa Tỉ (Gần gủi) Hình thái ấy nói gì ?

Hào 1 : Mới đầu có lòng thành tín mà đến với nhau.
Đến với mọi người, được mọi người tin yêu.
Hào 2 : Tự trọng mà gần gủi với ngoài.
Gần gủi thân thiết với mọi người.
Hào 3 : Gần gủi người không xứng đáng.
Đến và gần gủi với những người bị xã hội xa lánh ruồng bỏ.
Hào 4 : Gần gủi với bên trên
Tiếp cận và gần gủi với những bậc trên.
Hào 5 : Như khi săn thú, vua chỉ vây 3 mặt còn mặt trước bỏ ngỏ cho cầm thú thoát ra phía đó. Người trong ấp được cảm hoá không phải răn đe.
Tỏ rõ thái độ cao thượng của người được kính trọng. Sự ngưỡng mộ có được là từ tấm lòng thiện tâm.
Hào 6 : Không có đầu mối để gần gủi
Khúc bi tráng của người dành cả đời mình vì người khác.

Hình thái Thuỷ Địa Tỉ mô tả cuộc đời con người mang tính cách gần gủi chẳng khác với những gì Kinh Tân Ước đã ghi về Jesus. Chu Dịch không dừng lại ở đây. Nó còn có một hình thái khác mô tả hiện tượng bất thường rất giống với câu chuyện kể về hiện tượng sáng loà “Sống Lại” của Jesus được ghi trong Tân Ước. Trùng hợp ngẫu nhiên đến lạ kỳ ! Hình thái mô tả này ở hào thứ 7 của Thuần Càn. Tôi sẽ đề cập đến hào thứ 7 này ở bài khác.
Tinh thần Bác Ái của Cơ Đốc Giáo, Chu Dịch nói gì ?
Bác ái là khoan dung, là độ lượng. Tinh thần này tương ứng với hình thái Phong Hoả Gia Nhân (Khoan dung). Hào cuối cùng của hình thái này nói gì ?
“Có lòng chí thành và uy nghiêm”
Chu Dịch cho rằng : Tinh thần Bác Ái sẽ tồn tại với niềm thán phục và nể trọng của loài người.
Tôi không rõ lắm về cơ cấu và cơ chế hoạt động của Cơ Đốc Giáo, nhưng với cung cách hoạt động tổ chức rất hiệu quả trong công việc truyền đạo, tế bần, làm việc thiện thông suốt từ trên xuống đến giáo dân thì thật khó lòng cho rằng họ không đáng nể.



Chu Dịch Với Phật Giáo
Chu Dịch nói gì về Phật Tổ ? Tinh thần Từ Bi của Phật Giáo nằm trong hình thái nào của Chu Dịch ? Hình thái ấy nói gì ?

Chu Dịch nói gì về Phật Tổ ?

Sách sử có chép lại rằng Đức Phật vốn là Thái Tử đã có gia thất trước khi xa lánh chốn trần tục lên đường tu đạo và thành Phật. Cách Ngài thể hiện trong cuộc đời tu hành cùng với Đạo Ngài sáng lập tương ứng với hình thái Thiên Sơn Độn (Lánh đi) của Chu Dịch. Hình thái này nói gì ?

Hào 1 : Lánh sau cùng, như cái đuôi.
Ngài muốn lánh ngay từ đầu (thuở bé)
Hào 2 : Hai bên khăng khít nhau như buộc nhau bằng dây bò vàng. Không thể cởi được.
Vị Quân Vương, cha Ngài ràng buộc Ngài mang trách nhiệm đối với thần dân. Ngài lên ngôi Thái Tử.
Hào 3 : Lúc phải lánh mà bịn rịn tư tình.
Ngài lập gia thất.
Hào 4 : Có hệ luỵ với người, nhưng lánh được.
Ngài quyết lánh khỏi thế gian trần tục, mặc dù còn mang hệ luỵ với người vợ trẻ.
Hào 5 : Lánh đi theo điều chính.
Ngài lánh đi để tu Đạo
Hào 6 : Lánh mà ung dung đường hoàng.
Lánh đấy nhưng là sự lánh đi ung dung mà đường hoàng. Ngài lánh đi không mang sắc thái tự tư, ích kỷ, bị chê cười (Vì thế mới đường hoàng) Thực tế Ngài đã dùng hình thức lánh đi để lên đường thuyết giảng Phật Pháp.

Thật lạ lùng cho cái hình thức Lánh Đi ! Tưởng rằng lánh đi luôn sẽ là điều tệ hại ích kỷ. Cái lánh đi đến giai đoạn cuối cùng của Đức Phật được Chu Dịch mô tả là cái lánh đi cao cả của một người hướng thiện. Thật hay !!! Chu Dịch tài tình thật ! Cái lánh đi ở Phật Giáo cũng thật tài tình !

Tinh thần Từ Bi của Phật Giáo. Chu Dịch nói gì ?

Đế đạt được cái tâm Từ Bi Hỉ Xả, Phật Pháp hướng chúng sinh đến chữ Tịnh. Chữ Tịnh tương ứng với hình thái Thuỷ Phong Tĩnh trong Chu Dịch. Hào thứ 6 (Hào cuối cùng) của hình thái này mô tả cái kết cục của tinh thần Từ Bi Hỉ Xả như sau:
“Là Giếng Nước Sạch Sẽ Để Mọi Người Đến Múc Mà Uống. Tồn Tại Mãi Mãi”
Thật kinh khủng cho cả hai, Phật Pháp và Chu Dịch !!! Đã quá rõ, tôi không thể nói điều gì hơn.

CHU DỊCH NÓI VỀ “ĐẤNG TỐI CAO”
* Cấu trúc Chu Dịch được hình thành nên từ một số nguyên tắc. Những nguyên tắc này xuất phát từ một số nguyên lý. Trong đó nguyên lý âm dương là chủ đạo. Điều đó có nghĩa là bộ Chu Dịch được tạo nên từ thuyết Âm Dương. Triết học Nhị Nguyên vẫn tồn tại trong Chu Dịch, nhưng chỉ còn là một dạng nguyên lý nằm trong một Hệ Thống Triết Học mới của Chu Dịch. Hệ Thống triết học mới này được những người đời sau làm sáng tỏ dần và đặt cho nó cái tên Hệ Thống Triết Học Chu Dịch _ Thuyết Nhất Nguyên Hoàn Chỉnh.

* Thuyết Nhất Nguyên Hoàn Chỉnh kết thúc ở 2 quẻ Ký Tế: Đã xong (63) và Vị Tế: Chưa xong (64). Nghĩa là kết thúc rồi đó, nhưng kết thúc ở chỗ chưa xong (Còn nữa). “Còn Nữa” là cái gì ? Thuyết Nhất Nguyên Hoàn Chỉnh không cho câu trả lời. Vì thế tôi gọi thuyết này là Thuyết Nhất Nguyên Hoàn Chỉnh Hẹp. Tất phải có một thuyết khác khả dĩ giải thích được “Còn Nữa” là gì. Tôi gọi nó là Thuyết Nhất Nguyên Hoàn Chỉnh Rộng.

* Cái “Còn Nữa” là cái gì ? Theo Nhị Nguyên: Con người cùng với những gì con người cảm nhận được, thấy được, hiểu được bằng cảm xúc, bằng trực quan, bằng tư duy cụ thể được goị là Vũ Trụ Hữu Hình. Có Dương tất phải có Âm, vì thế, hữu hình tất phải có vô hình. Vũ Trụ Vô Hình đứng bên cạnh Vũ Trụ Hữu Hình. Vũ Trụ Vô Hình là như thế nào ? Đặt câu hỏi như thế tức là đã bước vào Thuyết Nhất Nguyên Hoàn Chỉnh Rộng, là đi tìm hiểu cái “Còn Nữa”. Nghĩa là cái “Còn Nữa” chính là Vũ Trụ Vô Hình. Vũ trụ vô hình không được mô tả rõ ràng trong Chu Dịch.

* Chu Dịch không diễn tả rõ ràng vũ trụ vô hình, thế nhưng, căn cứ vào thuyết Nhất nguyên hoàn chỉnh hẹp chúng ta có thể có được vài hình dung ban đầu về nó. Vũ Trụ Vô Hình có hình dáng ra sao ? Theo thuyết Nhất Nguyên Hoàn chỉnh Hẹp: Khi vũ trụ được hình thành, Dương & Âm cùng xuất hiện, Vũ Trụ Hữu Hình & Vũ Trụ Vô Hình cùng khởi sinh, không có cái nào có trước cái nào. Để các bạn hình dung được hình dáng của Vũ Trụ Vô Hình, tôi xin đưa ra ví dụ : Khi bạn đào đất, cái đống đất trên bờ là hữu hình, còn cái hố là vô hình, nghĩa là cứ sau một động tác đào đất, bạn đã tạo ra không chỉ 1 mà là 2 trạng thái
.
* Vũ Trụ Vô Hình có cái gì trong ấy ? Câu hỏi không nằm trong đề tài này. Điêù ta muốn biết ở đây “Ai” là người đào đất ? Chu Dịch cung cấp câu trả lời rất rõ ! (Xem Chu Dịch Diễn Giải)


CHU DỊCH VỚI THỂ THAO
Thiệu Vĩ Hoa, Dịch Sư số 1 của Trung Quốc hiện nay có giới thiệu hai phương pháp dự đoán: Dự đoán theo Tượng- Hào & Dự đoán Sáu Hào. So với các phương pháp dự đoán theo Chu Dịch hiện có tại Việt Nam, hai phương pháp này tỏ ra vượt trội về mặt lý luận.

Xem xét 2 phương pháp của Ông, tôi đưa ra vài nhận xét sau :

1. Ngoài dự đoán về con người và sự việc, ông đã cố gắng đưa khả năng ứng dụng của 2 phương pháp này vào các lãnh vực khác: Thời tiết, Thể thao, Y Học, Thiên Văn, Địa Chất.
2. Tác giả áp dụng các nguyên lý Âm Dương Ngũ Hành vào 2 phương pháp này khá thành thục và hợp lý.
3. Tuy nhiên, tác giả đã hiểu các nguyên lý Âm Dương Ngũ Hành theo lối cổ xưa, vì vậy, khi đưa ra các kết quả dự đoán, tác giả thường phải sử dụng đến kinh nghiệm dự đoán của bản thân. Rõ nhất là ở phương pháp dự đoán theo Tượng- Hào. Tác giả dùng nhiều đến các biểu tượng của Bát Quái. Khi dự đoán các trận đấu thể thao phức tạp như đá banh trên sân trung lập, tác giả phải đặt ra các qui tắc ngoại lệ.
4. Phương pháp Dự Đoán Sáu Hào được tác giả giới thiệu rất công phu, chi tiết và tỉ mỉ. Tuy vậy, nó vẫn tỏ ra phức tạp quá ! Quá nhiều các khái niệm và nguyên lý ! Các nguyên lý và khái niệm này thường chồng chéo và phủ định lẫn nhau khi lập luận dự đoán, khiến cho nhà dự đoán phải có kinh nghiệm để biết chọn nguyên lý nào cho từng trường hợp dự đoán cụ thể. Cách thức lập quẻ căn cứ vào Chu Dịch, nhưng cách dự đoán thì dựa hoàn toàn vào ngũ hành & hệ thống Can Chi. Điều này cho thấy phương pháp dự đoán sáu hào của Thiệu Vĩ Hoa đã biến hình và xích lại gần với môn dự đoán Tứ Trụ. Phương pháp Dự Đoán Sáu Hào cũng đòi hỏi người dự đoán phải có kinh nghiệm.

Có phương pháp nào không buộc người học phải có kinh nghiệm dự đoán ?
Bằng việc sử dụng Hệ Thống Lý Luận Đông Y hiện đại, tôi thiết lập một phương pháp dự đoán mới. Phương pháp này được phát triển từ phương pháp dự đoán theo Tượng-Hào.

Phương pháp mới có 3 lợi điểm sau :
1. Nó không đòi hỏi người dự đoán phải có kinh nghiệm dự đoán.
2. Nó không đòi hỏi người học phải biết rõ về Chu Dịch.
3. Về mặt ứng dụng, nó dễ sử dụng như khi ta giải phương trình bậc 2 có 1 ẩn số. Nghĩa là, đã có sẵn công thức, chỉ cần áp dữ liệu vào là có ngay kết quả.
Để có thể áp dụng phương pháp này vào thực tế, bộ Chu Dịch phải được mã hoá thành 2 ký hiệu (+) & (-). Về lý thuyết, công việc này thực hiện được.
Vòng chung kết bóng đá tháng 6-2002 tại Hàn Quốc, tôi đem phương pháp ra thử nghiệm. Kết quả dự đoán như sau: Đúng 63 trận, sai 1 trận ( Hàn Quốc >< Hoa Kỳ)
Tôi chưa lý giải được vì sao phương pháp cho kết quả dự đoán sai trận Hàn Quốc >< Hoa Kỳ, nên cần phải có thêm thời gian để xem xét lại.
Nhận xét:
1. Để kiểm nghiệm khả năng dự đoán của phương pháp mới, tôi chọn 64 trận bóng đá vòng chung kết vì nó mang tính hệ thống, thể thức thi đấu chặt chẽ.
2. Số lượng thử nghiệm nhỏ, 64 trận, nên con số 99,4% dự đoán đúng không mang giá trị thống kê.
3. Không mang giá trị thống kê, nhưng đã gợi mở rằng: Phương pháp được xây dựng đúng & kết quả dự đoán xác định được giá trị của từng nhóm đối tượng tham gia sự kiện.
4. Giá trị của từng nhóm đối tượng được xác định theo giá trị cặp Yes-No: Đúng-Sai, Phải-Trái, Có-Không.... Vì thế, phương pháp mới còn có thể áp dụng rộng rãi trong các lãnh vực khác.
5. Khi ứng dụng vào các lãnh vực khác, người dự đoán cần phải có trình độ với những hiểu biết nhất định trên lãnh vực ấy nhằm chọn các thông số phù hợp cho việc lập bài toán dự đoán.

Chu Dịch Với
Kỹ Thuật Nhân Bản Con Người
Vấn đề nhân bản con người được các quốc gia có nền khoa học tiên tiến hiện nay xem xét nghiêm túc. Căn cứ vào khuyến cáo của nhiều nhà khoa học, một số chính phủ đã đưa vào luật các điều khoản chi tiết nghiêm cấm việc nhân bản con người. Đúng hay sai, chúng ta để các nhà làm luật, chính trị gia phân định. Ở đây, tôi xin đặt vấn đề như sau: Khả năng nhân bản con người là có thật, vấn đề còn lại chỉ là thời gian. Vậy, nếu có những bản sao con người xuất hiện thì điều gì sẽ xảy ra cho loài người chúng ta ?

Chu Dịch cung cấp cho chúng ta hình thái Thuần Khôn. Hình thái mô tả tiến trình của sự SAO CHÉP. Hình thái ấy cho chúng ta những thông tin sau :

Hào 1 : Cẩn trọng ngay từ những bước đầu.
Hệ quả vật sao chép được cân nhắc rất kỹ lưỡng.
Hào 2 : Đức của mình thẳng, vuông, lớn.
Những người thực hiện kỹ thuật nhân bản cho rằng họ chỉ đơn thuần vì mục đích khoa học. Vì thế, họ sẽ thực hiện kỹ thuật này trên con người.
Hào 3 : Ngậm chứa không lộ ra. Đi theo người trên.
Có sự bảo lãnh của tổ chức hoặc quốc gia thực hiện kỹ thuật nhân bản con người. Công việc tiến hành này hoàn toàn bí mật.
Hoà 4 : Như cái túi thắt miệng lại.
Bị cáo giác. Nhưng họ vẫn không từ bỏ ý định. Công việc vẫn tiến hành và được giữ bí mật ở mức độ cao nhất.
Hào 5 : Được cái xiêm màu vàng.
Họ nhân bản thành công. Sau nhiều lần điều chỉnh, con người nhân bản đã có được khả năng tồn tại gần giống với con người.
Hào 6 : Đánh nhau ở đồng nội. Đổ máu đen, máu vàng.
Con người nhân bản tranh đấu cho quyền được làm con người như chúng ta.
Hào 7 : Lâu dài. (6 hào âm biến sang 6 hào dương, Thuần Càn)
Những người nhân bản tăng thêm số lượng đến một thời điểm họ sẽ quay lại đòi làm chủ. Và họ sẽ tạo lập cho họ một thế giới riêng (Biến sang THUẦN CÀN. Khởi đầu cho một tiến trình mới)

Yếu tố xã hội, tôi sẽ không đề cập. Dưới góc nhìn lịch sử loài người, căn cứ vào các thông tin từ diễn trình trên, tôi ghi 3 nhận xét sau :
@ Thứ nhất: Kết quả của kỹ thuật nhân bản sẽ tạo ra những con người nhân bản hoàn hảo tương đối so với con người chúng ta. Vì thế, con người nhân bản vẫn có khả năng tiếp thu kỹ thuật ấy từ chính chúng ta. Hoặc họ có thể tự tạo ra kỹ thuật ấy, một khi thế giới của họ có đủ điều kiện và thời gian cho sự phát triển nền văn minh của riêng họ.

Như vậy, Chu Dịch xác nhận kỹ thuật nhân bản là khả năng có thật trong tương lai.
@ Thứ hai: Trong tương lai, kỹ thuật nhân bản vẫn có thể xảy ra vào những thời điểm, ở những không gian khác do con người, hoặc người nhân bản thực hiện. Vậy, chúng ta không thể đoan chắc rằng kỹ thuật này chưa từng được thực hiện trong quá khứ. Vì vậy, tôi đặt vấn đề như sau: Ngoài thuyết tiến sinh tự nhiên đã được nền khoa học hiện nay chấp nhận, vẫn tồn tại một thuyết khác mà chúng ta cần phải xem xét đến : Loài người chúng ta hiện nay là nhân bản của một giống loài “NGƯỜI” tương tự khác. Vì thế, câu hỏi tiếp theo được đặt ra : Chu Dịch nhìn nhận ra sao thuyết Nguồn Gốc Nhân Bản ? _ Chu Dịch nhìn nhận sự tồn tại của thuyết Nguồn Gốc Nhân Bản qua tiến trình từ quẻ thứ nhất Thuần Càn đến quẻ thứ 13 Thiên Hoả Đồng Nhân.

Như vậy, Chu Dịch khẳng định sự tồn tại của thuyết Nguồn Gốc Nhân Bản.
@ Thứ ba : Chu Dịch xác định rằng: Ở thời gian đầu khi xuất hiện, khả năng thích ứng & tồn tại của người nhân bản không bằng con người. Nhưng với thời gian, người nhân bản sẽ tự hoàn thiện. Đến một thời điểm, khả năng thích ứng & tồn tại của người nhân bản sẽ tương tự như con người. Loài người chúng ta hiện nay, theo thuyết Nguồn Gốc Nhân Bản, đã có khả năng thích ứng & tồn tại tương tự như loài “NGƯƠI” đã tạo ra chúng ta chưa ? Và nếu đi dần lên, chúng ta sẽ gặp 2 câu hỏi :
1. Liệu có “Đấng Tối Cao” của loài “Người” ?
2. Hoặc thuyết tiến sinh theo Nguồn Gốc Nhân Bản có dạng vòng tròn tuần hoàn khép kín. Tức là không có “Đấng Tối Cao” ?
Câu hỏi thứ hai, Chu Dịch không xác nhận tính hợp lý. Vũ trụ của Chu Dịch là vũ trụ tuần hoàn và mở. Như vậy, Chu Dịch cho rằng có sự tồn tại của Đấng Tối Cao của con người.

Đến đây, chúng ta sẽ gặp câu hỏi: Nếu có đấng tối cao của con người, vậy ai đã tạo ra đấng tối cao ấy ? Câu hỏi hóc hiểm này thường gặp với những nhà truyền giáo, nhưng với Chu Dịch thì rất dễ trả lời !
“Loài người chúng ta có đấng tối cao, số lượng đấng tối cao không dừng lại ở con số 1 khi căn cứ vào tuổi của vũ trụ. Số lượng đấng tối cao là nhiều, nhưng vấn đề ở đây liệu họ có còn tồn tại ? Nếu còn tồn tại thì họ có khả năng liên hệ với chúng ta ? Hoặc có khả năng đấng tối cao của loài người chúng ta đang suy vi ? Và chúng ta có thể đặt vấn đề ngược lại rằng: Một trong số Đấng tối cao loài người chúng ta đang ở trình độ phát triển rất cao, và họ khả dỉ có quyền năng lớn thật sự để có thể chi phối chúng ta ?”

Tóm lại, theo Chu Dịch: Đấng tối cao chỉ vào một nền văn minh cụ thể, không phải chỉ vào 1 con người duy nhất. Và loài người chúng ta hiện nay trong tương lai sẽ là đấng tối cao của loài người nhân bản. Đấng tối cao hiểu theo Chu Dịch _ Nhất Nguyên Hoàn Chỉnh Hẹp là như vậy.
.

Trích "KHẢ NĂNG PHÁT HIỆN CỦA CHU DỊCH" Dương Kiện Toàn