Tam Viên nằm ở khu vực giữa của bầu trời – Bắc Thiên Cực. Khu vực dải nằm giữa con đường mà mặt trăng đi qua ban đêm và mặt trời đi qua ban ngày được phân chia theo 28 chòm – 28 Tòa nhà của sao, tức Nhị thập bát Tú. Trong mỗi chòm có một Ngôi sao là chủ tinh, là ngôi nằm gần nhất Bạch đạo, dù ngôi sao đó có thể không phải là sáng nhất.
Có tài liệu nói rằng ghi chép về Nhị thập bát tú đã được tìm thấy có từ thời Chiến quốc, 400 TCN ở Hồ Bắc, và khẳng định nó có sớm nhất là vào thế kỷ 5 TCN, trong Sử Ký cũng viết về các chòm. Nhưng việc phân chia thành các cung theo Ngũ hành thì phải đến đời Tần mới có, và việc gán tên các con vật thì còn muộn hơn, có thể là chịu ảnh hưởng của Ấn Độ, giống như gán các con giáp vào các chi vậy. Điều đáng lưu ý là trong kinh điển Ấn Độ cổ cũng đề cập đến các chòm sao quanh Bạch đạo, và cũng nêu con số 27 hoặc 28. Tuy các chòm không trùng nhau, nhưng trong mối quan hệ giao lưu văn hóa thông qua Phật giáo, chúng cũng được gọi chung là Nhị thập bát Tú.
Quanh Thiên Cực được quy ước chia làm 4 phương Đông Tây Nam Bắc, 28 Tú cũng được chia là 4 cung, mỗi cung 7 chòm, đó là:
Thanh Long – Rồng xanh - phương Đông - hành Mộc, mùa xuân, gồm:
Giác – Cang – Đê – Phòng – Tâm – Vĩ – Cơ.
Bạch Hổ - Hổ trắng - phương Tây - hành Kim, mùa thu, gồm:
Khuê – Lâu – Vị - Mão – Tất – Chủy – Sâm.
Chu Tước – Chim đỏ - phương Nam - hành Hỏa, mùa hạ, gồm:
Tỉnh – Quỷ - Liễu – Tinh – Trương – Dực – Chẩn.
Huyền Vũ – Rùa, rắn đen (1) – phương Bắc, hành Thủy, mùa đông, gồm:
Đẩu – Ngưu – Nữ - Hư – Ngụy – Thất – Bích.
Nếu xếp theo vòng Đông – Tây – Nam – Bắc thì như vậy.
Có thể theo Xuân – Hạ – Thu – Đông thì xuôi chiều kim đồng hồ là Thanh Long – Chu Tước – Bạch Hổ - Huyền Vũ.
Tuy nhiên thường 28 Tinh tú được xếp theo vòng vận động trời đất là Đông – Bắc – Tây – Nam, ngược chiều kim đồng hồ, tức Thanh Long – Huyền Vũ – Bạch Hổ - Chu Tước, vì vậy thứ tự các Tinh tú là : Giác – Cang – Đê – Phòng – Tâm – Vĩ – Cơ – Đẩu – Ngưu – Nữ - Hư – Nguy – Thất – Bích – Khuê – Lâu – Vị - Mão – Tất – Chủy – Sâm – Tỉnh – Quỷ - Liễu – Tinh – Trương – Dực – Chẩn.
Việc đặt tên các Tinh tú cũng đặc biệt. Mỗi tên gồm 3 chữ, chữ đầu là tên gọi tắt như trên, không thống nhất. Trong đó có bộ phận cơ thể (sừng, cổ, tim,…), có đồ vật (đấu, giỏ, lưới, xe), có con người (nữ), con vật (trâu), có kiến trúc (phòng, tường, giếng,…,), có cả các khái niệm (gốc, hư,…). Dường như không có quy tắc. Việc này có lẽ phản ánh tư duy phóng khoáng không gò bó cổ đại.
Chữ thứ 2 là một trong Thất chính lần lượt theo thứ tự: Mộc - Kim - Thổ - Nhật - Nguyệt - Hỏa - Thủy, tinh tú nào có chữ tương ứng sẽ là phù trợ cho Hành tinh ấy. Thuyết Ngũ hành đời Tần đã đem một khuôn khổ quy luật vào đây.
Chữ cuối cùng là tên 1 con vật, gồm cả vật nuôi, vật hoang, và thần thoại.
Con số 7 cũng là một cơ số quan trọng đối với người Trung Hoa. Có học giả cho rằng thời cổ đại người Trung Hoa chưa dùng cơ số 10, mà mới dùng cơ số 7, nên để lại một số dấu vết như tục cúng bảy bảy bốn chín ngày. Con số 7 được dùng trong Đạo giáo nhiều hơn.
Các chòm này có số sao không giống nhau, ít nhất là 2 và nhiều nhất là 22, nằm trong phạm vi những chòm sao khác nhau của Thiên văn phương Tây. Bản dưới đây là tên đầy đủ, số sao, và thống kê đối chiếu với các chòm phương Tây.
TT
|
Khu
vực
|
Tên
Hán
|
Tú
|
Tên đầy đủ
|
Ý Nghĩa
|
Thất Chính
|
Con
vật
|
Số sao
|
Tương ứng
|
Chủ tinh
|
1
|
Đông
Thanh Long
Mùa Xuân
|
|
Giác
|
Giác Mộc Giảo
|
Sừng
|
Sao Mộc
|
Cá sấu
|
2
|
Virgo
|
a
Spica
|
2
|
|
Cang
|
Cang Kim Long
|
Cổ
|
Sao Kim
|
Rồng
|
4
|
t
|
3
|
|
Đê
|
Đê
Thổ
Lạc
|
Gốc
rễ
|
Sao Thổ
|
Nhím
|
4
|
Libra
|
a2
|
4
|
|
Phòng
|
Phòng Nhật Thố
|
Phòng
|
Mặt Trời
|
Thỏ
|
4
|
Scor-pius
|
d
|
5
|
|
Tâm
|
Tâm Nguyệt Hồ
|
Tim
|
Mặt Trăng
|
Cáo
|
3
|
a
Antares
|
6
|
|
Vĩ
|
Vĩ
Hoả
Hổ
|
Đuôi
|
Sao Hỏa
|
Hổ
|
8
|
m
|
7
|
|
Cơ
|
Cơ Thuỷ Báo
|
Giỏ
|
Sao Thủy
|
Báo
|
4
|
Sagitta-
rius
|
g2
|
8
|
Bắc
Huyền Vũ
Mùa Đông
|
|
Đẩu
|
Đẩu Mộc Giải
|
Đấu
|
Sao Mộc
|
Giải
|
6
|
f
|
9
|
|
Ngưu
|
Ngưu Kim Ngưu
|
Trâu
|
Sao Kim
|
Trâu
|
6
|
Capri-
conus
|
b
|
10
|
|
Nữ
|
Nữ
Thổ Bức
|
Nữ
|
Sao Thổ
|
Dơi
|
3
|
Aquarius
|
e
|
11
|
|
Hư
|
Hư Nhật Thử
|
Hư không
|
Mặt Trời
|
Chuột
|
2
|
b
|
12
|
|
Ngụy
|
Nguỵ Nguyệt Yến
|
Mái
|
Mặt Trăng
|
Én
|
3
|
Aquarius/
Pegasus
|
a
|
13
|
|
Thất
|
Thất
Hoả
Trư
|
Nhà
|
Sao Hỏa
|
Lợn
|
2
|
Pegasus
|
a
|
14
|
|
Bích
|
Bích Thuỷ Dư
|
Tường
|
Sao Thủy
|
Cừu
|
2
|
g
|
15
|
Tây
Bạch
Hổ
Mùa
Thu
|
|
Khuê
|
Khuê Mộc Lang
|
Chân
Bước
|
Sao Mộc
|
Sói
|
16
|
Andro-meda
|
d
|
16
|
|
Lâu
|
Lâu
Kim Cẩu
|
Đai
|
Sao Kim
|
Chó
|
3
|
Aries
|
b
|
17
|
|
Vị
|
Vị
Thổ
Trệ
|
Bụng
|
Sao Thổ
|
Trĩ
|
3
|
41
|
18
|
|
Mão
|
Mão Nhật
Kê
|
Lông
|
Mặt Trời
|
Gà
|
7
|
Taurus
|
h
Pleiades
|
19
|
|
Tất
|
Tất Nguyệt Ô
|
Lưới
|
Mặt Trăng
|
Quạ
|
8
|
q
|
20
|
|
Chủy
|
Chuỷ Hoả Hầu
|
Mỏ
rùa
|
Sao Hỏa
|
Khỉ
|
3
|
Orion
|
j
|
21
|
|
Sâm
|
Sâm Thuỷ Viên
|
3 Vì sao
|
Sao Thủy
|
Vượn
|
7
|
d
|
22
|
Nam
Chu Tước
Mùa
Hạ
|
|
Tỉnh
|
Tỉnh Mộc Hãn
|
Giếng
|
Sao Mộc
|
Bò
|
8
|
Gemini
|
h
|
23
|
|
Quỷ
|
Quỷ Kim Dương
|
Quỷ
|
Sao Kim
|
Dê
|
5
|
Cancer
|
d
|
24
|
|
Liễu
|
Liễu Thổ Chương
|
Cây liễu
|
Sao Thổ
|
Cheo
|
8
|
Hydra
|
s
|
25
|
|
Tinh
|
Tinh Nhật Mã
|
Sao
|
Mặt Trời
|
Ngựa
|
7
|
a
|
26
|
|
Trương
|
Trương Nguyệt Lộc
|
Giăng lưới
|
Mặt Trăng
|
Hươu
|
6
|
n1
|
27
|
|
Dực
|
Dực Hoả
Xà
|
Cánh
|
Sao Hỏa
|
Rắn
|
22
|
Crater
|
a
|
28
|
|
Chẩn
|
Chẩn Thuỷ Dẫn
|
Xe
|
Sao Thủy
|
Giun
|
6
|
Corvus
|
g
|
Trong đồ hình trên bầu trời, Thanh Long phương Đông nằm ở bên trái, Chòm Giác Đông Nam ở góc dưới bên trái, theo đúng Hậu Thiên bát quái là Trời bắt đầu mở ở Đông Nam, vòng dần lên trên vòng dần lên trên tức là theo phương Nam mà xoay vòng (trên bầu trời phương vị ngược với mặt đất).
Vị trí cụ thể các chòm Nhị thập bát tú trong các bản đồ sau, trong đó ngôi màu trắng là chủ tinh. Đường màu đỏ ở giữa là Thiên xích đạo, đường cong màu xanh là Hoàng đạo.
Chòm Thanh Long – phía Đông, mùa Xuân
Chòm Huyền Vũ – phía Bắc, mùa Đông
Chòm Bạch Hổ - phía Tây, mùa Thu
Chòm Chu Tước – phía Nam, mùa Hạ
Việc phân chia 28 chòm sao này có từ thời cổ đại, và người Trung Hoa không muốn thay đổi những kiến thức của người đi trước, nên họ chấp nhận nó đến hàng ngàn năm sau. Trên thực tế việc dùng 28 chòm có một cái tiện lợi là xác định đường đi của mặt trăng, nhưng có nhiều bất tiện. Trước hết là các chòm không chiếm những cung bằng nhau; có cung như Tỉnh góc lớn hơn 30 độ, trong khi cung Chủy chưa đến 3 độ. Điều này là do độ lớn các chòm chênh lệch quá nhiều, có chòm chỉ có 2 sao, trong khi chòm khác 22 sao. Độ sáng biểu kiến cũng rất khác nhau, rồi có chòm như Chủy gần như nằm lọt vào giữa chòm Sâm, nên không mang tính khoa học.
Trong văn hóa Ấn Độ cũng có 27 hoặc 28 chòm sao nằm trong khu vực mặt trời và mặt trăng đi qua, nhưng không trùng với nhị thập bát tú. Các chòm sao của Ấn Độ mang tính khái quát nhiều hơn, tượng trưng cho tất cả các vì sao trên bầu trời. Vì vậy trong kinh Phật giáo cũng nói đến các chòm sao, và khi sang Trung Quốc, được các hòa thượng biên dịch là Nhị thập bát tú luôn, để thống nhất với quan sát, khoa học và truyền thống bản địa.
Nhị thập bát tú đã đi vào Văn hóa của Trung Quốc và các nước Hán hóa, mang nhiều ý nghĩa Văn hóa. Chẳng hạn chòm sao Khuê tượng trưng cho Văn học, và ở Văn miếu Hà Nội có Khuê Văn Các (gác sao Khuê) tượng trưng cho vẻ đẹp, cao quý của văn học, trong chòm Khuê có 2 ngôi sáng nữa là Đông và Bích (không phải chòm Bích), nên Đông Bích cũng để chỉ văn học. Nhà Đường lập thư viện hoàng cung đặt tên là Đông Bích phủ. Lê Thánh Tông lập ra Tao đàn nhị thập bát tú gồm 28 người cũng mang tên các chòm sao. Hoặc như Mão cũng tượng trưng cho ánh sáng, vì gà báo trời sáng. Trong hình tượng truyền thống Trung hoa, Tinh chủ của các Tú là các vị thần mang đặc tính của các con vật, hay đúng hơn là con vật mang hình người, khi cần họ có thể biến thành các con vật tương ứng dễ dàng. Các Tú trở thành tín ngưỡng dân gian. Nhị thập bát tú không chỉ phát triển trong đời sống văn hóa, mà còn đi vào tôn giáo.
Hơn thế nữa, nhị thập bát tú đi vào đời sống, đến mức khi nói đến vật cứng rắn thì ví với sừng của Cang Kim Long, nói đến chỗ rộng mà trống thì ví với Hư Nhật Thử. Mỗi tú còn gắn với Ngũ hành, kết hợp tạo nên những phạm trù đặc biệt.
Trong cuốn sách Y thuật cổ “Hoàng Đế nội kinh”, Nhị thập bát tú ứng với 28 mạch trong cơ thể, trời xoay một vòng qua hết 28 Tú thì cúng tương ứng với mạch vận động 1 chu trình trong cơ thể con người.
(1) Hình tượng Huyền Vũ có liên quan mật thiết đến một vị thần có vị trí rất cao trong Đạo giáo là Huyền Thiên Trấn Vũ đại đế (Còn các danh xưng khác là Thượng đế Tổ sư, Đãng ma thiên tôn, Hỗn nguyên Giáo chủ, Bắc Cực Huyền linh đại đế) có hai con vật thiêng là Linh Quy, Thần Xà, tượng trưng cho Trường tồn và Trí tuệ. Vì vậy chữ Vũ trong Huyền Vũ ở đây với nghĩa Sức manh là gồm cả Rùa và Rắn, tiếng Anh còn dịch là Warrior.
Tú hsiu (mansion)
Thạch Thân: Shi Shen
Cam Đức: Gande
Vu Hàm: Wu Xian
Tư Mã Thiên: Sima Qian
Sử Ký: Shiji
Trương Hoành Zhang Heng
Tổ Xung Chi: Zu Chongzhi, Tsu Ch'ung Chi, Cui Zhongji
Tô Tống: Susong
Nhất Hành: Yi Xing
Hỗn Thiên: Hu tian
Tam Viên: Three Enclosures
Tử Vi: Purple Forbidden Enclosure
Thái Vi: Supreme Palace Enclosure
Thiên Thị: Heavenly Market Enclosure.
Nhị thập bát tú: 28 Mansions
Bắc Đẩu: Big dipper
Thanh Long: Green Dragon – Azure Dragon
Bạch Hổ: White Tiger
Chu Tước: Red Bird, Red Sparrow, Vermilion Bird,
Huyền Vũ: Black Warrior, Black Tortoise, Murky Tortoise
Bát Quái: Ba Gua, Eight Trigrams,
Tiên thiên: Earlier Heaven, Primal Arrangement –
Hậu thiên: Ater Heaven, Inner World Arrangement
.
Tác giả: Bùi Dương Hải thienvanhoc.org