TÌM HIỂU MẬT TÔNG "CỬU TỰ THỦ ẤN" TU LUYỆN
Lưu ý : Bộ Thủ Ấn này chủ yếu do hệ phái Đông Mật sử dụng. Đại pháp tu trì này dùng 9 bộ cách tu trì để khai mở lực tiềm năng tập trung trong 9 nơi bí mật tìm ẩn trong thân người. 9 bộ vị tiềm năng này gồm 7 luân xa và các ngón của 2 tay là 9. Pháp tu luyện Cửu Tự Thủ Ấn, nên lựa chỗ trống vắng mà tu tập.
Không quá tối quá sáng, không quá chật, quá rộng, trần nhà không quá cao quá thấp. Thời gian tu tập bất luận ngày đêm, nhưng vào sáng sớm thì không khí trong lành hơn. Trước khi tập cần phải rửa tay súc miệng sạch sẽ, sửa sang quần áo, dung nghi.
Người mới tập không được tập quá 30 phút. Cách thực hiện thủ ấn đã có ở phần bài viết ở đây chỉ bổ sung ấn và chú.
Quán niệm sinh mệnh lớn rót đầy trong vũ trụ đang rót đầy tòan thân ta và ta đang tiếp dòng sinh mệnh lực này, ta hiện đang biến thành BẤT ĐỘNG BỒ TÁT.
Chú: NAMAH SAMANTA VAJRANAM (3L)
- OM VAJRA SATVA AH (108L)
- OM VAJRA SATVA AH. NAMAH SAMANTA VAJRANAM HAM (108 L)
Thủ ấn này biểu thị cho người bệnh nặng sắp chết tung giường trổi dậy, khôi phục lại sinh mệnh. Quán niệm ta là HÀNG TAM THẾ MINH VƯƠNG biểu lộ sự nổi giận, hàng phục tất cả kẻ địch xung quanh.
Chú: NAMA STRIYA DVIKANAM SARVA TATHAGATANAM AM VIRAJA VIRAJI MAHACAKRA VAJRI SATA SATA SARATE SARATE TRAYE TRAYE VIDHAMANI SAMBHAMJANI TRAMATI SIDAGRI YATTRAM SVAHA (108L)
- OM SUSHINI SUSA VAJRA HUM PHAT (108 Lần)
Đấu là Dũng cảm quả đóan, càng gặp chướng ngại càng bộc lộ quyết tâm cao. Quán niệm ta như Kim Cang Mạn Bồ Tát tòan thân màu trắng (bạch nhục) đoan trang đang phóng hào quang chói lọi
Chú: OM SAMAYASATVAM OM VAJRA MALE THATA (108 Lần)
- OM SAMAYA SATA OM VAJRA MALE TRAYA (108 Lần)
Biểu thị có thể tự do tự tại thao túng khống chế nhục thể của mình hoặc người khác. Quán niệm:
Ta cùng Kim Cang Đại Nhật đồng làm 1 thể. Tâm của Đại Nhật Như Lai như sư tử vương, nuốt chửng hết bốn loại độc trong tâm ta như Tham Sân Si...
Chú ( Niệm ra tiếng): OM VAJRA DATU VAM (108 Lần) Tưởng tượng ánh hào quang từ câu chú biến chiếu khắp hư không.
Biểu thị cho sự thay đổi của tâm người cho đến Tha tâm thông, có thể tùy tâm muốn thao túng kẻ khác.
Không quan niệm quán tưởng, tập trung vào thủ ấn, không có chút tạp niệm trong đầu.
Chú: OM SARVA TATHAGATA MUSTI VAM OM VAJRASATVA MUSTI A OM VAJRA RATNA MUSTI TRAM OM VAJRA DHARMA MUSTI KHAM OM VAJRA KARMA MUSTI HAM (108 Lần)
Là tiếng của Linh giới, tập trung vào sự Kính ái và giàu có. Quán niệm tự thân biến thành Kim Cang Tát Đỏa.
Tiếp theo phải quán Kim Cang Câu Bồ Tát, Kim Cang Sách Bồ Tát, Kim Cang Tỏa Bồ Tát, Kim Cang Linh Bồ Tát.
Sau đó xướng chơn ngôn, kết thủ ấn.
Chú: OM VAJRA SATSA AH JAH HUM VAM HOH(108 Lần)
Là bởi ta hòan thành đến mức cứu tế cho người khác, biểu thị Tâm của bậc Thánh. Tâm vô tưởng vô niệm mà tiến hành.
.
.
.
.
.
.
Là lăng không, ngự không một cách tự do tư tại, bay lượn trong không trung. Biểu thị sức mạnh có thể khống chế tự nhiên.
Cần tưởng nguyệt luân tròn đầy. Nguyệt luân dần dần biến to ra đến lúc chiếm nửa hư không.
Ngay khi đó, thân ta và thân Đại Nhật cũng dần biến to, đối nhau, dần dần tiến gần nhau cho đến khi nhập lại làm một.
Ta cũng là Đại Nhật, trụ vào trong nguyệt luân tròn.
Là Phật, cũng là cảnh giới của bậc siêu nhân. CĂN BẢN THÀNH THÂN HỘI Suất lãnh Tứ Phật biểu thị đức Đại Nhật Như Lai đang nhập Niết Bàn Không có quán tưởng, quán niệm chơn ngôn.
TRAO ĐỔI:
Xin được nói thêm một chút theo hiểu biết và sưu tập riêng của mình. Tu trì Đại pháp Thủ Ấn này là thông qua 9 bộ cách tu trì để khai mở Lực tiềm năng tập trung trong 9 nơi bí mật ẩn nơi thân người. Môn Cổ Đại Du Già đã phát hiện ra 7 nguồn suối phát xuất năng lượng trong cơ thể (7 luân xa hay còn gọi là Cakra).
Các vị Du Già Đại sư đã tìm ra những biện pháp kiểm soát và khai mở các nguồn suối năng lượng này.
Thông qua sự tu tập các phương pháp, rèn luyện về sự khai mở 7 luân xa trong thân làm cho con người khai quật các tiềm năng của tự thân mình, thực hiện được các kỳ tích phi thường mà Đạo gia, Phật gia thường gọi là thần thông. Thật ra, việc thực hiện các phép DuGià (Yoga) của Ấn Độ là một trong những phương tiện khai mở luân xa để đạt đến thần thông.
Cửu Tự Thủ Ấn cũng vậy, các vị Tổ Mật Tông Tây Tạng đã biết vận dụng công năng của các bộ ấn khế kết hợp với thần chú và các thế tập, quán tưởng , quán niệm để sáng tạo ra Cửu Tự Thủ Ấn Đại pháp. Mục đích cuối cùng của pháp môn này cũng là con đường giải thoát mà thôi, chỉ có khác chăng là phương tiện thực hiện có một số chi tiết hơi giống với phép tu luyện của Đạo Gia bên Trung Quốc ( bởi vì các vị Tổ Mật Tông Nhật Bản đã tham cứu cách tu tập từ những pháp môn của Trung Quốc mà).
Chính vì những thành tựu thần thông đạt được trong quá trình tu luyện đã làm cho một số vị đời sau rẽ sang lối khác, luyện theo Thần đạo, chia năm xẻ bảy, xây dựng thành nhiều tông, nhiều phái. Nếu những ai có nghiên cứu về thuật Ẩn Giả ( Ninja) sẽ thấy những người tu tập cao đều có luyện qua ấn chú...
HỎI:
Vậy là chữ Liệt , Tại Tiền không có câu chú nào ?
TRẢ LỜI
Mỗi thủ ấn đi cùng một bộ pháp và phép quán tưởng quán niệm nhằm khai mở những công năng trong mỗi luân xa. Càng lên cao, càng hướng về vô chấp, vô niệm. Ba thủ ấn cuối cùng không có Chú, không quán niệm quán tưởng là thế.
Tóm lại, tu hành theo Mật tông dễ sở đắc thần thông, đồng thời cũng dễ chệch hướng nếu không có thầy lành, bạn tốt. Mật tông Nhật Bản ít phổ biến như Mật tông Trung Quốc cho nên rất nhiều người không biết đến. Xin được trình bày thêm để anh chị em cùng tham khảo, tìm hiểu.
Bài viết này chỉ để tham khảo, chỉ là hình thức chứ không phải là một nội dung đầy đủ cần thiết cho việc tu học.
Quang Võ biên tập
MƯỜI TÁM KHẾ ẤN
Việt dịch HUYỀN THANH
Theo Thầy thọ Quán Đỉnh, đã được ấn khả xong, chẳng bao lâu sẽ thành tựu. Đệ tử đủ Tướng này mới có thể truyền thụ. Đây tức là báu Như Ý hay thành tựu các sự nghiệp.Như Kinh nói nơi chốn : Sườn núi, bên dòng sông, A Lan Nhã thanh tịnh, khe, động… tùy theo ý thích. Nơi ấy phải xa lìa các ách nạn đáng sợ. Hành Nhân sắm sửa vật cúng dường tùy theo khả năng.
1 ) Hành Nhân quay mặt hướng về Bản Phương lễ bái Bản Tôn, tiếp theo lễ chư Phật ở phương khác. Cúi năm vóc sát đất kính lễ như Kinh Giáo , quỳ dài hai đầu gối sát đất, chắp tay giữa trống rỗng, thành Tâm bày tỏ tất cả Tội của ba Nghiệp :
” Con từ đời quá khứ , trôi lăn trong sinh tử. Nay đối trước Đại Thánh Tôn xin hết lòng Sám Hối. Như chư Phật đời trước đã Sám, nay con cũng Sám như vậy. Nguyện nương nhờ vào lực gia trì mà tất cả chúng sinh đều thanh tịnh”
Do Đại Nguyện này cho nên Tự, Tha không có dơ bẩn ( Vô cấu ).
Mật Ngôn là :” Án_ Tát –phộc bà phộc, thâu đà tát phộc, đạt ma tát-phộc bà phộc, thâu độ hàm “
輆 辱扣向 圩益 屹湱叻猣 辱扣向 圩益 珈曳
OMÏ_ SVABHÀVA ‘SUDDHA_ SARVA DHARMA SVABHÀVA ‘SUDDHA UHAMÏ
2 ) Tiếp đối trước Bản Tôn, ngồi Kiết Già hoặc ngồi Bán Già, khởi Tâm Đại Bi :” Con tu Pháp này vì tất cả chúng sinh, nguyện mau chứng Vô Thượng Chính Đẳng Bồ Đề”
Trước tiên, mài các loại hương dùng để xoa tay. Sau đó kết PHẬT BỘ TAM MUỘI GIA ĐÀ LA NI ẤN . Chắp 2 tay giữa rỗng, mở 2 ngón trỏ co lại phụ ở lóng trên của 2 ngón giữa, co 2 ngón cái phụ lóng dưới của 2 ngón trỏ thì thành Ấn. Đặt Ấn ở trái Tim, tưởng 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp của Đức Như Lai rõ ràng trước mắt, chí Tâm tụng Chân Ngôn 7 biến.
Chân Ngôn là :”Án_ Đát tha nghiệt đỗ nạp bà phộc dã, sa-phộc hạ”
湡 凹卡丫北咼名伏 送扣
OMÏ_ TATHÀGATA UDBHAVÀYA _ SVÀHÀ
Do kết Ấn này và tụng Chân Ngôn tức liền cảnh giác tất cả Như Lai , thảy đều hộ niệm gia trì, phóng hào quang chiếu chạm vào thân Hành Giả thì bao nhiêu tội chướng đều được tiêu diệt, tho mệnh mau tăng, Phước Đức thêm lớn. Thánh Chúng thuộc Phật Bộ vui vẻ ủng hộ, đời đời kiếp kiếp xa lìa các nẻo ác, hóa sinh trong hoa sen, mau chứng Vô Thượng Chính Đẳng Bồ Đề.
3 ) Tiếp kết LIÊN HOA BỘ TAM MUỘI GIA ẤN. Chắp 2 tay lại giữa rỗng, mở bung 2 ngón trỏ, 2 ngón giữa, 2 ngón vô danh rồi co lại như hình hoa sen. Đặt Ấn ở trái Tim, tưởng Quán Tự Tại Bồ Tát với đầy đủ tướng tốt. Tụng Chân Ngôn 7 biến rồi bung Ấn bên phải đỉnh đầu.
Chân Ngôn là :” Án_ Bả ná mô nạp-bà phộc dã, sa-phộc hạ “
輆 扔痧 珈咼名伏 送扣
OMÏ_ PADMA UDBHAVÀYA _ SVÀHÀ
Do kết Ấn này và tụng Chân Ngôn tức liền cảnh giác Bậc cầm hoa sen , tất cả Bồ Tát thuộc hàng Quán Tự Tại. Thánh Chúng của Liên Hoa Bộ thảy đều vui vẻ gia trì hộ niệm. Ánh hào quang của tất cả Bồ Tát chiếu chạm vào thân Hành Giả thì bao nhiêu tội nghiệp đều được tiêu diệt, tất cả Bồ Tát thường làm bạn lành.
4 ) Tiếp kết KIM CƯƠNG BỘ TAM MUỘI GIA ẤN . Lật nghiêng bàn tay trái, hướng bàn tay ra
ngoài. Đặt lưng bàn tay phải sát lưng bàn tay trái. Đem 2 ngón cái, 2 ngón út trợ móc nhau như hình cái chày Kim Cương. Đặt Ấn ở trái Tim, tưởng Kim Cương Thủ Bồ Tát . tụng Chân Ngôn 7 biến rồi bung Ấn ở bên trái đỉnh đầu.
Chân Ngôn là:” Án_ Phộc nhật-lô nạp-bà phộc, sa-phộc hạ “
輆 向怵咼名伏 送扣
OMÏ_ VAJRA UDBHAVÀYA _ SVÀHÀ
Do kết Ấn này và tụng Chân Ngôn tức liền cảnh giác thất cả Thánh Chúng thuộc Kim Cương Bộ gia trì ủng hộ. Bau nhiêu tội chướng của Hành Giả thảy đều tiêu diệt, tất cả bệnh tật khổ đau chẳng vướng vào thân nên được Thể kiên cố của Kim Cương.
5 ) Tiếp kết HỘ THÂN TAM MUỘI GIA ẤN. Hai tay cài chéo nhau bên trong, bên phải đè bên trái. Dựng thẳng 2 ngón giữa, co 2 ngón trỏ như hình móc câu đừng để dính vào lưng ngón giữa, lấy 2 ngón cái đè 2 ngón vô danh liền thành. Ấn lên 5 nơi trên thân thể là : vầng trán, vai phải, vai trái, trái tim, cổ họng rồi bung Ấn trên đỉnh đầu. Mỗi nơi đều tụng Chân Ngôn một biến.
Chân Ngôn là:” Án_ Phộc nhật-la ngân-nễ, bát-la niệm bả-đá dã, sa-phộc hạ “
湡 向忝 狣蚱 盲司挕伏 送扣
OMÏ_ VAJRA AGNI PRADIPTAYA_ SVÀHÀ
Do kết Ấn này và tụng Chân Ngôn gia trì tức liền thành BỊ KIM CƯƠNG GIÁP TRỤ. Hết thảy Tỳ Na Dạ Ca ( Vinàyaka ) với các Thiên Ma, loài gây chướng ngại đều bỏ chạy tứ tán vì nhìn thấy Hành Giả tỏa hào quang và thân ấy có uy đức tự tại. Nếu Hành Giả cư ngụ ở núi rừng và nơi hiểm nạn đều không có sợ hãi.Tất cả ách nạn về nước, lửa, cọp, sói, sư tử, dao, gậy, gông cùm, xiềng xích… thảy đều tiêu diệt. Người nhìn thấy vui vẻ. Sau khi chết chẳng bị đọa vào nẻo ác mà được sinh về Quốc Thổ tịnh diệu của chư Phật.
6 ) Tiếp kết ĐỊA GIỚI CHÂN NGÔN ẤN. Đưa ngón vô danh phải vào bên trong ngón út và ngón vô danh trái. Đưa ngón giữa phải vào bên trong ngón giữa và ngón trỏ trái. Tay trái cũng như vậy. Các ngón còn lại đều dính đầu ngón. Liền tưởng Ấn thành hình cái chày Kim Cương rực lửa mạnh ( Hỏa Diễm Kim Cương Xử) .Đem ngón cái vạch lên mặt đất, mỗi vạch mỗi tụng Chân Ngôn cho đến 3 lần thì ngưng. Tùy theo Tâm biểu thị lớn nhỏ liền thành Địa Giới kiên cố.
Chân Ngôn là :” Án_ Chỉ lị, chỉ lị, phộc nhật-la, phộc nhật-lị, bộ luật, mãn đà, mãn đà, hồng, phát tra “
湡 一印 一印 向忝 向忽 穴 楠神 向神 狫 民誆
OMÏ_ KILI KILI_ VAJRA VAJRI BHÙR_ BANDHA BANDHA _ HÙMÏ PHATÏ
Do kết Ấn này và tụng Chân Ngôn gia trì Địa Giới cho nên bên dưới đến Thủy Tế như Toà Kim Cương. Thiên Ma với các loài gây chướng chẳng thể gây não hại được, chỉ dùng chút ít công lực mà mau được thành tựu.
7 ) Tiếp kết PHƯƠNG NGUNG KIM CƯƠNG TƯỜNG CHÂN NGÔN ẤN. Dựa theo Địa Giới Ấn lúc trước, mở 2 ngón cái dựng đứng bên cạnh như hình bức tường. Tưởng Ấn như hình cái chày Kim Cương, chuyển bên phải quanh thân 3 lần biểu thị cho sự lớn nhỏ của Tâm liền thành cái thành kiên cố của Kim Cương. Chư Phật Bồ Tát còn chẳng làm trái ngược huống chi các loài khó điều phục khác. Tỳ Na Dạ Ca ( Vinayàka ) với loài trùng độc, loài có móng nhọn nanh bén chẳng thể lại gần.
Chân Ngôn là :” Án_ tát la tát la, phộc nhật-la, bát-la ca la, hồng, phát tra “
湡 屹先 屹先 向忝 盲一先 狫 民誆
OMÏ _ SARA SARA VAJRA PRAKARA HÙMÏ PHATÏ
8 ) Hành Giả tiếp nên tưởng trong Đàn trên hoa sen lớn 8 cánh có một Tòa Sư Tử. Trên Tòa có cái lầu gác bằng 7 báu, rũ treo các Anh Lạc, vải lụa, phướng lọng. Từng hàng cây báu rũ treo Thiên Y tuyệt đẹp, mây hương tỏa khắp, mưa tuôn đủ loại hoa, các thứ âm nhạc tấu vang, bình báu, Ứ Già, thức ăn uống thượng diệu của chư Thiên, đèn bằng ngọc Ma Ni. Tác quán xong liền tụng Kệ rằng :
Dùng lực công đức Ta
Lực Như Lai gia trì
Cùng với lực Pháp Giới
Cúng dường khắp rồi trụ
9 ) Nói Kệ này xong, tiếp kết ĐẠI HƯ KHÔNG TẠNG PHỔ THÔNG CÚNG DƯỜNG ẤN. Chắp 2 tay lại, đem 2 ngón giữa cài chéo nhau bên ngoài, 2 ngón trỏ cùng dựa nhau co gấp lại như hình báu. Kết Ấn thành xong, tụng Chân Ngôn 4 biến
Phổ Thông Cúng Dường Chân Ngôn là :” Án_ Nga nga nẵng, tam bà phạ phộc nhật-la, hộc “
湡 丫丫巧 戌矛向 向忝 趌
OMÏ _ GAGANA SAMÏBHAVA VAJRA HOHÏ
Do tụng Chân Ngôn này gia trì cho nên bao nhiêu vật cúng dường tưởng tượng đều không khác với các vật cúng dường chân thật. Tất cả chúng Hiền Thánh đều được thọ dụng.
10 ) Tiếp nên kết BẢO XA LẠC ẤN. Hai tay cài chéo nhau bên trong rồi ngửa lòng bàn tay. Để ngón trỏ nằm ngang tựa nhau, đặt 2 ngón cái đều vịn dưới gốc ngón trỏ. Tưởng Xa Lạc bảy báu có ngôi Kim Cương trên chiếc xe báu nương theo Hư Không đi đến Thế Giới Cực Lạc của Bản Tôn. Tụng Chân Ngôn 3 biến.
Chân Ngôn là :” Án_ Đổ lỗ, đổ lỗ, hồng “
湡 加冰 加冰 狫
OMÏ_ TURU TURU HÙMÏ
Do Chân Ngôn Ấn này gia trì cho nên Xa Lạc bảy báu đi đến quốc thổ của Bản Tôn. Tưởng Bản Tôn với các Thánh Chúng có quyến thuộc vây quanh ngồi trên Xa Lạc báu đến trụ trên hư không của Đạo Trường.
11 ) Tiếp kết THỈNH XA LẠC ẤN. Dựa theo Ấn trước đưa ngón cái vào thân, bật đầu ngón giữa. Tụng Chân Ngôn 3 biến.
Chân Ngôn là :” Ná ma tất-để-la-dã địa-vĩ ca nẫm, đát tha nghiệt đa nam. Án_ Phộc nhật-lãng ngân nễ-dã yết lợi-sa dã, sa-phộc hạ “
巧休 榑伏盎乙觡 屹楠 凹卡丫出觡 湡 向怪蚱伏 狣一溶伏 送扣
NAMAHÏ STRYADHVIKÀNÀMÏ TATHÀGATÀNÀMÏ_ OMÏ _ VAJRAMÏGNIYA AKARSÏAYA _ SVÀHÀ
Do kết Chân Ngôn Ấn này gia trì cho nên Thánh Chúng từ Bản Thổ đi đến trụ trong hư không của Đạo trường.
12 ) Tiếp kết THỈNH BẢN TÔN TAM MUỘI GIA GIÁNG CHÍ Ư ĐẠO TRƯỜNG ẤN. Hai tay cài chéo nhau bên trong rồi nắm lại thành quyền, co ngón cái trái vào trong lòng bàn tay, tiếp đưa ngón cái phải hướng về thân triệu mời.
Chân Ngôn là :” Án_ Nhĩ nẵng nhĩ ca_ Án, a lô lực ca_ Án, phộc nhật-la đặc-lặc ca _ A nghiệt xa, a nghiệt xa, sa-phộc hạ”
湡 元巧 元塴 湡 狣吐共塴 湡 向忝 呤塴 狣一溶 狣一溶 送扣
OMÏ JINA JIK _ OMÏ AROLIK _ OMÏ VAJRA DHRÏK AKARSÏA AKARSÏA _ SVÀHÀ
Do Chân Ngôn Ấn này gia trì cho nên Bản Tôn chẳng vượt qua Bản Thệ liền phó tập ( Đi đến dự hội ) nơi Đạo Trường